Chủ Nhật, 8 tháng 5, 2016

HỒI KÝ THÉP ĐEN - ĐẶNG CHÍ BÌNH - PHẦN 16


41.  ĐỊNH  MỆNH  CON  NGƯỜI

Chúng tôi năm anh chàng trong phe chiến bại, đang bị một cô gái trong phe chiến thắng ”hành” ngày thứ Bẩy, Lao Động Xã Hội Chủ Nghĩa như mọi khi. Bỗng có tiếng ồn ào, quát tháo từ phía ngõ, khu Sơn Tây, chúng tôi đang quét và nhặt rác, thông những ống cống ở mấy con đường hẻm gần nhà thờ Nam Hòa, đều ngừng tay ngửng lên: Một cô gái tóc uốn, chừng 18 hay 19 tuổi, nước da trắng hồng, với bộ mặt tương đối khả ái. Toàn bộ thân hình của cô không hề có một mảnh vải, không phải cô gái nào cũng có một thân hình cân đối như cô. Cô rảo bước từ phía ngõ Sơn Tây đi đến, có mấy đứa trẻ con trai mươi, mười hai tuổi hò hét chạy theo nhìn, nhiều tiếng quát của người lớn là để gọi con cái họ, không được đi theo nhìn.
Tôi và mấy anh kia, cũng đều bàng hoàng đờ cả người ra. Quay lại phía cô công an Ngọc Anh, thì cô ả mặt đỏ như mai cua luộc, gục mãi đầu vào một cánh cửa sổ của một ngôi nhà. Tình thế bất ngờ !
Lẽ ra phía phụ nữ, những bà lớn tuổi, phải ra can thiệp, hoặc đưa vải hay khăn che cho cô ta. Nhưng chả có một ai ra giúp đỡ giữa khoảng 10- 12 giờ trưa, nếu ở gần nhà tôi, tôi sẽ gọi Hoa đưa tạm cái khăn, hay miếng nylon ra che cho cô ta. Tôi cũng không dám đến gần cô, để tìm hiểu vì sao lại có một sự việc ”ngàn năm một thuở” như thế này?
Bố mẹ và nhà cô ở đâu? Khi đến dong nhà thờ, cô rẽ ra đường Bắc Hải để sang khu Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa cũ. Chúng tôi đang lao động có người chỉ huy, nên chả đi đâu được. Tuy chẳng một ai trong chúng tôi biết lý do, nguyên nhân, nhưng chắc bốn anh kia cũng như tôi, làm sao mà quên được:
Cái buổi ” chết người ” lao động ấy!
Ngàn năm chưa dễ đã ai………quên!
Nó độc lập với ý chí của con người, dù có muốn quên đi nhưng vẫn còn nhớ mãi. Tôi về kể chuyện lại cho Hoa, Hoa lại cười ré lên, như con gà tây gại ổ:
- Như vậy là anh vớ ” bở ” rồi!
Tôi chả biết đến ”bở” hay ”sượng” nhưng rõ ràng sự việc này, nó cũng luồn sâu bên trong là vấn đề xã hội. Từ sự việc này, nếu ai chịu suy nghĩ đều đã nhìn thấy, nhiều mặt của cái xã hội ấy.
Hôm nay đi làm về, vừa đến cửa Hoa đã chạy ra, mặt em tươi roi rói, em nói ríu rít:
- Vừa khi nãy có một anh chừng ba chục tuổi đi xe Honda vào, anh ta nói là anh em của một Biệt Kích nhẩy Bắc, muốn gặp anh? Tên anh ta là Vân.
Tất nhiên, tôi chả biết anh ta, vì tôi chưa gặp lần nào, có địa chỉ ở gần Cống Bà Xếp Hòa Hưng. Cứ để đấy, cuối tuần tôi sẽ đến thăm, xem sao? Không ngờ hôm sau gần 5 giờ anh ta lại đến. Tôi về đến nhà, ngoài cửa một chiếc Honda còn ”láng coóng“, mới và đẹp hơn xe của chú Tuất, chồng em Xuân. Một cậu rất tư cách, tỏ là giới ”lõi” của thành phố, cậu ta tự giới thiệu là Vân, em rể của Hoàng Văn Chương, một biệt kích ra Bắc 1968.
Cậu đã ra Bắc thăm Chương, cùng với cô Hoàng Thị Phúc, chị vợ. Cô Phúc cũng là em của Chương, như thế tôi hiểu: Hoàng Văn Chương, rồi cô Phúc và còn một người em gái nữa. Người em gái này là vợ của Trần Vân. Thái độ của Vân rất niềm nở, mới gặp mà như đã quen nhau lâu rồi. Ngay buổi chiều ấy Vân mời tôi cho bằng được ra một hiệu phở ở Ông Tạ, Vân mời cả Hoa, nhưng Hoa đã từ chối, phải ở nhà cơm nước, săn sóc ông bà cụ.
Nói chuyện với Vân, tôi biết nhiều điều mới của Sài Gòn dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa. Mấy ngày sau, Vân đã đèo tôi về nhà gặp vợ Vân. Vân ở mãi dưới Long An, nhưng thường xuyên đi về bà nhạc ở Hoà Hưng. Tôi cũng đã gặp cả cô Phúc là em của Chương, cô Phúc cũng đạt dào tình người. Tôi hiểu Trần Vân có một số khả năng, nhìn được một số kẽ hở của xã hội mới, nên cậu ta đã lách vào những kẽ trống đó để giải quyết cuộc sống của gia đình, mà còn thảnh thơi, thong dong.
Cậu ta chạy ”mánh” thuốc lá, thuốc Tây; chơi thì có trọng điểm, theo cậu ta, màng lưới CA và quan thuế dầy đặc. Đã gọi là màng lưới, thì phải có mắt lưới và nút lưới, nút lưới là chỗ chốt của CA hay quan thuế. Vì thế, điều cần thiết là phải nhìn được ra đâu là mắt, đâu là nút, hơn nữa với những kỹ thuật thực hư, hư thực của CA và thuế quan, phải nắm vững chỗ nào, mắt trở thành nút và ngược lại. Thấy anh chàng Vân này tuy chưa có kinh qua về tình báo; chỉ do kiến thức thiên phú tự nhiên mà cũng tương đối sắc sảo, tôi khích lệ và bổ sung những chỗ tôi biết cho Vân.
Đi với Vân, tôi vừa học hỏi thêm kinh nghiệm lại có bồi dưỡng, bù đắp những ngày nắng hạn trước đây. Để thưởng thức một ”pha” làm ăn của Vân, hôm đó sau khi trình diện xong, Vân và tôi ra Xa Cảng. Mối cũ của Vân, tôi ngồi sau xe Honda, ôm 900 bao thuốc lá ba số 5, trong một cái bao tải gạo cũ, luồn lách qua nhiều đường hẻm, đã đưa về nhà Vân an toàn. Theo Vân tiền lời của ” cú đó, có thể mua được một tạ rưỡi gạo.
Có lần cô Phúc một Honda, Vân đèo tôi trở lại thăm nhà hàng Thanh Thế, nơi 1962 tôi và bạn bè hay ra ngồi, vợ Vân bụng to; Hoa cũng bụng to nên phải ở nhà.
Đã mấy lần cô Phúc và Vân ca tụng một bà thầy tướng, ở một ngõ trong khu Đắc Lộ, nhã ý của hai người muốn mời tôi cùng đến xem một lần để thẩm định, tôi đều từ chối, phần vì tôi sống bằng sự nỗ lực, của chính bản thân tôi. Hơn nữa, mỗi lần xem giá 30 đồng cho một người, đành rằng do Vân và cô Phúc trả; nhưng tiền của ai thì cũng là tiền. Nếu có một chút ý thức tự trọng, thì tiền của người khác, cũng ý nghĩa như tiền của mình.
Tôi đã đánh giá Vân là người khá sắc sảo, bén nhậy, mà còn ca ngợi cô thầy tướng, nào là: không phải ngẫu nhiên mà nhiều người ở xa đến xem tướng phải nằm chực, nằm chờ vì vào nhưng giờ cô thầy không coi, hoặc vì đông quá v.v… Những người từ Lục Tỉnh lên, người từ Thanh Hóa, Nghệ An vào, anh cứ đi đến xem anh có ” oversea ” được không? Tôi đã từ chối nhiều lần, đưa ra nhiều lý do, không hiểu sao Vân và cô Phúc lại muốn tôi cùng đi xem?
Hơn một tuần sau, Vân cho biết, hôm qua cô Phúc và Vân đã đi xem rồi, bà thầy nói như người quen biết từ lâu với mình, biết rõ quá khứ, tương lai của một người. Một tuần có hai ngày bà không xem, dù trả gấp đôi hay gấp ba; đó là thứ Ba và thứ Bẩy. Tôi hỏi, thế Vân có hỏi tại sao bà thầy, lại không xem hai ngày ấy? Bà thầy đã nói: Bà cũng muốn coi, vì khách chờ lâu, nhưng bà nhìn được vận mệnh của người khác là do lộc, do ý của Thánh. Thánh đã dậy, bà chỉ biết tuyệt đối vâng lời!
Đến đây thì tôi đã hiểu Vân muốn tôi đi coi, một người đã đi tù hết cả tuổi xuân trong nhà tù, xem bà ta có biết không? Vả lại theo Vân, tôi cũng có những nhận xét tương đối về tướng số và bói toán. Thực sự tôi không hề biết về những món tướng số, tử vi, bói toán. Những năm tù ở trại trung ương, do tiếp xúc với một số thầy tướng, thầy ngải, thư, ếm bùa người dân tộc, người Kinh đều là loại danh tiếng, có cỡ cộng sản mới bắt vào tù. Tôi tiếp xúc với các vị, chẳng có một chủ trương gì, ngoài cái tính tò mò, và cũng tùy tiện, nghĩa là gặp chăng hay chớ, chứ chẳng để tâm làm gì.
Tôi lại chợt thoáng nhớ tới ngày 30-4-1975, những tờ báo cộng sản tha hồ huênh hoang nhiều chuyện, có một chuyện đăng ngay trên tờ Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân. Chúng còn ra rả đọc ở trên đài phát thanh, khi chúng vào tiếp quản Dinh Độc Lập, một tổ ba người (tôi không nhớ tên), được lệnh đặc biệt lục tìm những tư liệu mật và tài sản giấu đút của Nguyễn Văn Thiệu. Chúng đã thấy ngay ở đầu giường của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, có ba quyển sách quý: Một cuốn về tướng số của con người, hai cuốn kia là tử vi phong thổ, nổi tiếng của thế giới và miền Nam.
Ngay ở trong tù, anh em chúng tôi nghe đến đấy, đều ồ lên cười đùa? Nhiều anh em tù miền Bắc đã nói: ” Chắc ông Thiệu không chịu nghiên cứu kỹ, nên đã phải chuồn đi từ ngày 16-4″. Hầu hết những biệt kích chúng tôi đều cúi xuống, để tránh mắt mọi người.
Về vấn đề tâm linh, tín ngưỡng nó cũng có những cái chung: Cuộc sống càng cơ cực, lầm than; thất bại tràn lan, mạng sống quay cuồng trong bão tố, thì con người càng tìm đến thần linh để cứu giúp, che chở. Ngược lại, cơm no, áo ấm thừa thãi, muốn cái gì cũng đạt theo ý mình, thì càng lửng lơ xa lìa thần thánh. Dưới chế độ cộng sản vô thần, chúng coi thần thánh là kẻ thù, chúng đả phá tiêu diệt. Nhưng người dân quá cơ cực đói khát, thiếu thốn lầm than nên họ càng tìm đến, với thần linh.
Nó trở thành mâu thuẫn đến vô lý, của hai hệ thống xã hội. Thế giới tư bản tự do, hữu thần: Người dân thờ ơ, coi thần linh tôn giáo như một hình thức trang trí, làm cảnh. Thế giới cộng sản độc tài vô thần: Người dân thành kính đến với thần linh, tôn giáo, coi thần linh, tôn giáo như một cứu tinh của đời họ. Tôi nhớ đến một chuyện tướng số, thời gian tôi ở tù: Có một giai đoạn, khoảng 1969- 1971 ở trại trung ương số 1 Lào Cai.
Giai đoạn này tôi mới lên trại, chưa có tay nghề mộc khá, để có thể có năng suất kiếm một vài đồng, mua thuốc hút. Một đêm tôi nghĩ ra một cách ” ma giáo ” để kiếm thuốc hút. Tôi hiểu con người ta có nhiều cái riêng, nhưng cũng có nhiều cái chung. Anh thấy cái đó đẹp, người khác cũng thấy cái đó đẹp, anh thấy ăn cái đó ngon, người khác cũng thấy ngon. Trong cuộc sống anh sợ hãi cái đó, người khác cũng sợ hãi cái đó vậy v.v. ..
Phải chấp nhận: muốn kiếm tiền, hay sống bằng nghề nghiệp gì cũng phải mất tâm trí, công sức về cái đó, ít hay nhiều tùy theo. Nghề bác sĩ thì phải mất nhiều tâm trí, công sức hơn (học nhiều hơn) nghề sửa xe đạp. Chuyện tôi chỉ cần kiếm điếu thuốc hút ở trong tù, nên chỉ cần suy nghĩ qua loa một chút: Tìm một số điểm chung của con người, mới thoáng nghe lại tưởng là cái riêng. Phải khoét sâu vào tâm lý, và cũng phải biết chế ngự, giới hạn.
Tôi nói chuyện với mấy bạn nằm bên cạnh: Ngày xưa, nhớ hồi còn học trung học (tất nhiên ở Sài Gòn), do tình cờ tôi đọc được một cuốn sách của Pháp nhan đề: Định mệnh con người (L’homme et sa destinée), tôi thấy họ vẽ những bàn tay với những đường chỉ tay, của mỗi người khác nhau. Từ những đường, những điểm khác nhau này, để người này có cuộc đời khác với người kia (ai mà chẳng quan tâm đến ngày mai của cuộc đời mình). Cuốn sách này được giới thiệu là của ” Hội nghiên cứu về số phận của con người do một nhóm giáo sư đại học biên soạn “.
Mấy anh ngồi cạnh đều xôn xao giơ tay, để xem cuộc đời mình ra sao? (ở tù thì đời anh nào chả bế tắc). Tôi lửng lơ, tỏ ra không muốn mất thì giờ, vào những chuyện vẩn vơ, để rồi tôi đưa ra điều kiện: Thôi bây giờ thế này, tôi thì không biết gì về tướng số, tôi nhìn tay bạn, nó giống như trong sách điểm nào thì tôi nói theo: Chuyện tương lai thì chẳng ai kiểm chứng được, vậy chỉ là sự việc đã qua và hiện tại. Nếu tôi nói ba điều, mà các bạn không thừa nhận là đúng, thì tôi không xem nữa. Ngược lại, nếu bạn thừa nhận là đúng thì tôi phải được thường một điếu thuốc lá, hoặc là ba điếu thuốc lào? Ai đồng ý thì tôi bắt đầu! Nhiều anh đưa tay lại tôi đồng ý.
Tôi cầm tay một anh, mặt tôi tỏ vẻ mô phạm, đăm chiêu, xoay ngang, xoay dọc, xem từng đường chỉ tay: Đường đời, đường học vấn, đường tình duyên, miệng lại nói tiếng Pháp như minh giải. Rồi nói như quyết đoán theo sách: ” Bàn tay này nội tâm rất nặng! ” Anh đó hơi ngơ ngác chưa xác định được; tôi nói thêm thí dụ: Bạn gặp một sự việc, một người quen mới, một chuyển đổi mới v.v. . . Người khác chỉ nghĩ đến một chút rồi quên đi, bạn thì cứ vẩn vương trong óc, có khi đến đêm còn nhớ lại, anh ta xác nhận là đúng!
Tâm lý bị đánh lạc, hay bị dụ, bị mê hoặc là sách của Pháp. Tỉnh táo sẽ thấy đây là cái chung, của mỗi người. Câu thứ hai: “Lạ thật! Bàn tay này nặng tình với người thân hơn, là người thân đối với mình “. Người thân có nghĩa là cha mẹ, anh em, vợ chồng, bạn bè v.v. . . Nghĩ một lúc rồi anh ta thừa nhận là đúng! (cái này có đo được đâu nên thế nào cũng đúng). Sau khi được thừa nhận hai câu là đúng, tôi lại ngó nghiêng bàn tay, thậm chí phải kéo ra chỗ sáng, rồi nói như quyết đoán: Cứ những gò ”thiên chường”, rãnh ”nguyệt đàm” của bàn tay này, thì sách nói là một người có ý chí mạnh, làm bất cứ việc gì đều quyết làm cho xong; chỉ bất đắc dĩ chứ không muốn nhờ vả ai cả.
Người thì tôi nói: ”bàn tay này có một lần tường chết, nhưng lại hóa giải được“, vì có một âm hồn phù trợ. Anh này suy nghĩ cho kỹ, 30 – 40 tuổi ai mà chả một lần thoát chết? Kể cả lúc mới đẻ v v. Nhiều người cùng nghe, và tôi tiếp tục có thuốc hút, mà hút một cách không phải đi xin. Người này bảo người kia, sang cả những buồng bên cạnh. Tâm lý của người đời, khi muốn ca tụng, thì cứ mở thêm ra. Lúc đó tôi lại quy định giờ xem, vì tôi đã có đủ thuốc hút, không cần mấy nữa. Vả lại, phải tỏ ra kênh kiệu như thế, nó mới càng có giá, người ta càng tin.
Nếu tôi chủ trương để kiếm sống bằng nghề ”Ma giáo” này, thì phải dày công nghiên cứu, sưu tra như một nghệ thuật, rồi nghề dậy nghề, do thời gian càng điêu luyện. Như tôi đã nói từ đầu, đây là do ”ma giáo” của tôi, phần vì tôi đã kiếm được cách có thuốc hút, vì tay nghề (mộc) khá hơn nên có năng suất. Phần khác là chính tôi, không cho phép tôi làm những việc như vậy nên tôi đã dứt khoát, không xem cho ai nữa.
Thế mà giờ đây Vân, lại muốn tôi đi xem tướng cái cô ở Đắc Lộ. Nể tình của Vân, một hôm tôi đồng ý để chiều lòng người bạn trẻ, và cũng xem trình độ, của cô thầy tướng Đắc Lộ này cao đến đâu, để hiểu biết thêm. Thế là một buổi hẹn, Vân và tôi, phóng chiếc Honda đến khu Đắc Lộ để gặp cô ”Thầy “. Tôi đã giao hẹn Vân ”để tôi hoàn toàn tự do, không được nói một tí gì về tôi cả“. Vân đồng ý, vì Vân muốn tôi đi, Vân phải chịu điều kiện của tôi.
Vào một căn hẻm, đến nhà cô thầy, bên ngoài có 7- 8 chiếc Honda và Mobylette xếp dựng theo hàng, 4- 5 chiếc xe đạp ở một góc. Căn nhà lợp tôn, hai buồng xây gạch và một buồng nhỏ vách gỗ. Trong nhà phía gian nhà gỗ, đàn ông, đàn bà lố nhố hơn một chục người nằm, ngồi. Qua dáng dấp và vài hiện tượng kết hợp, tôi đã hiểu là những người khách chờ cô ”thầy” xem tướng ở những nơi xa về. Có một bà hơn bốn chục tuổi ghi sổ sách và điều hành đám khách hàng chúng tôi, thay cho cô ” thầy.
Căn nhà cũng như những nhà khác trong xóm, không có một miếng giấy hay tấm bảng nào, ghi là chỗ hành nghề của cô thầy. Vân dựng xe xong, bước vào trong nhà. Chúng tôi phải đến ghi tên chỗ cái bàn con, theo bà điều hành nhắc nhở, rồi bà ta dẫn đến một buồng xây phía trái. Dù có một tấm liếp che, tôi vẫn nhìn thấp thoáng thấy những người phía bên căn nhà gỗ.
Chừng nửa giờ sau, có tiếng xôn xao của mấy bà bên ấy: “Cô thầy đã tới!“. Tôi, Vân đứng lên, ngó ra, một cô chừng 29-30, mặc chiếc áo khoác mầu xanh đậm, tóc quăn bồng cao phía trước. Đôi mắt sáng, sắc như dao cau, một đứa bé gái chừng 10 tuổi, ôm cái tráp đi phía sau, từ phía trái căn nhà gỗ đi ra. Ngay từ xa tôi đã thấy mắt cô ta như điện, đã nhìn sang khắp chúng tôi, nhưng khi đi gần tới, lại coi như chưa nhìn thấy chúng tôi. Trong lúc nhiều người đứng lên lễ phép trang trọng chào cô thầy, tôi thoáng thấy một tên ”áo vàng” đã đứng tuổi, cũng từ phía sau căn nhà gỗ đi ra, rồi rẽ vào một hẻm khác.
Tôi chợt nghĩ như thế CA và cô ” thầy ” phải ” ăn có “với nhau, thì mới có số người lạ, nằm đêm tụ tập mới ổn được. Đột nhiên cô ”thầy” chen vào giữa mấy ông bà bên căn nhà gỗ, cô chỉ tay vào một ông mặc chiếc áo sơ mi mầu gụ có cầu vai, giọng của cô thầy sang sảng: ”Chuyến này, ông không đi được! Nguy hiểm tính mạng! Hôm nay tôi không xem cho ông, sang năm trở lại đây!“. Nói rồi cô ”thầy“đẩy cửa đi vào căn buồng giữa. ông sơ- mi mầu gụ mặt trắng bạch, chới với định hỏi gì, nhưng cô “thầy” đã đóng cửa rồi. Tôi và mấy người xô đến hỏi han: Được biết, ông đó từ Vĩnh Long lên chiều hôm qua, đến nhờ cô thầy xem chuyến này đi có trót lọt không?
Điều lạ kỳ là; ông ta chưa gặp cô ”thầy” mà sao cô đã biết là ông định đi ”vượt biên” và còn nói đi không được, nguy hiểm nữa? Càng bàn tán thì sự việc càng thấy ly kỳ hơn, uy tín của cô ”thầy” càng được dàn rộng và càng ngấm thẩm vào bên trong số người này. Trong lúc bà quản lý gọi một số người trước vào buồng cô ”thầy“. Vân cứ trừng trừng nhìn tôi, miệng mỉm mỉm như muốn nói: ”Anh đã thấy cái tài ”thần thông” của cô thầy chưa? “.
Tôi không thể có ý kiến trong trường hợp này, hơn nữa công sức và thời gian đâu, để chuyện trò tìm hiểu với cái ông áo ”sơ-mi mầu gụ” để hỏi ông, từ hôm qua ở đây ông đã nói chuyện với bất cứ ai về chuyện ông định đến xem về chuyện ra đi của ông? Không kể lý do, giai đoạn này, nếu không nói là hầu hết thì cũng chiếm đa số, những người đến đây xem tướng số, đều phải tính đến ít nhiều, về chuyện vượt biên? Điều đáng để ý là tại sao cô ”thầy” phải làm cái kiểu ”muốn tỏ tài” thần thông ”trước nhiều người? “.
Đến lượt tôi được gọi vào, từ đầu Vân đã giới thiệu Vân với tôi là hai anh em ruột, Vân đã xem rồi, thấy hay, thấy đúng nên về đưa ông anh lại coi. Nhân dịp người anh là tôi, mới ở trên trại định cư Cái Sắn về Sài Gòn chơi, do đấy cả hai chúng tôi đều được vào căn buồng giữa.
Mở cửa đã thấy mùi hương nhang ngào ngạt. Hơi đặc biệt, một bàn thờ đơn giản có bát nhang khói bay nghi ngút, trên có hai tấm tranh thờ, một là đức Trần Hưng Đạo, và một là ông Quan Công ở bên Tàu. Cô ”thầy” ngồi bên trong một chiếc bàn con, đôi mắt long lanh như hạt sương trong ánh đèn. Theo ý tôi, Vân dẫn tôi đến chào cô ”thầy” giới thiệu: ”Đây là anh trai mới xuống chơi” rồi sang cái chõng tre phía vách bên kia ngồi.
Từ lúc vào, tôi như người có bệnh kinh niên, tôi vẫn vịn vai Vân, dáng đi và cử chỉ tỏ mệt mỏi, chậm chạp. Cô có cái thước nhôm 1/ 2 hình tròn có phân, ly để đo những đường chỉ tay, mặc cô đo tôi cứ nói chậm rãi:
- Tôi bị té từ trên mái nhà, gãy một xương sườn, một bên lá lách vỡ nát, tường chết. Bạn bè tôi đều nói, chỉ ở ngoại quốc mới chữa được bệnh của tôi. Tôi liều sẽ đi ”vượt biên” tôi nhờ cô xem , có đi được không? Chết thì tôi không sợ (bệnh này chết khỏi đau đớn), nhưng tôi sợ nhất là ở tù, cô chú ý xem cho, bàn tay này có phải ở tù hay không?
Tôi cứ thủng thẳng nói, trong lúc cô đo, cô xem tay tôi. Để hỗ trợ cho việc đánh lạc hướng, tâm lý cô ” thầy “; tôi ngoái sang chỗ Vân, hỏi nhẹ:
- Chú Vân ơi? Có phải tôi té, từ tháng 7/1973 phải không? Tôi chẳng còn nhớ năm nào?
Tôi hỏi như vậy, có nghĩa năm 1973 tôi vẫn ở miền Nam. Cô ” thầy “đã thấy tôi lo sợ nhất là ở tù, cuối cùng cô đã nhấn mạnh để tôi tin tưởng:
- Không phải ở tù, chuyến đi trót lọt! Tương lai sẽ gặp nhiều thuận tiện, đời tôi ăn về hậu vận v.v. . .
Để xác định rõ ràng, tôi nói to cho cả Vân cùng nghe:
- Thưa cô, cô xem kỹ lại, bàn tay này có bị ở tù không?
Cô nói khẳng quyết là ” không “.
Tôi còn ” láy “lại:
- Có nghĩa bàn tay này không bao giờ sợ phải vào tù?
Cô nhìn tôi một lúc, rồi gật đầu, tôi vui ra mặt, thấy tương lai của mình như sáng sủa ra.
Vân hôm nay ra về, nét hả hê đã dàn đầy trên khuôn mặt. Dắt Honda ra tới ngõ, Vân còn ngoái lại nhìn căn nhà của cô “thầy” rồi quay lại nhìn tôi. Đôi mắt của Vân hấp him lóa ra mầu hoàng kim, cái mầu chắc nịch của tâm hồn. Tôi chẳng hỏi, nhưng tôi nghĩ rằng Trần Vãn, chẳng còn trở lại để gặp cô ” thầy nữa.
Trên đường về Vân có nhã ý hỏi tôi: Muốn ăn bất cứ món gì Vân sẽ phải ăn theo. Để đáp lại tôi, đã chiều theo ý của Vân, vừa lúc ấy Honda đã về ngang Ông Tạ. Cái mùi chả ”Chó” nó phả ra đầy đường, từ ngày về tôi chưa một lần thực hiện được một ý thơ, của một người bạn tù:
Đã là trai…đất Bắc Phải biết… lúc… lắc… với… chả cầy.
Một cái chồi ”hứng” đã ngỏng lên trong lòng, tôi đã đồng ý vào một hiệu ”Cây Còn” gần chéo Ngã Ba ông Tạ. Tôi và Vân cùng tương đắc cái món ”nghiền” của dân nhậu Bắc Hà, nên đã thả lỏng lòng thưởng thức ”Mộc Tồn“. Cái món mà nhiều thế hệ cha anh, đến chết còn phải băn khoăn:
Sống ở trên đời, ăn miếng dồi chó.
Chết xuống âm phủ, còn có hay không ?
Hôm nay tôi hân hạnh gặp cụ Lưu Linh nữa, nhưng tôi chỉ dám tiếp ”cụ” xã giao, vì tôi còn phải gặp cô Ngọc Anh 7 giờ, và còn phải họp tổ dán phố, 8 giờ tại nhà ông trùm Lộc.

42. HOA KẾT TRÁI

Sau khi họp tổ dân phố về, người tôi hãy còn mệt, thì em Hoa kêu trong người thấy khác thường, tôi xuống nhà hỏi mẹ, em Hoa cũng mệt nhọc lần cầu thang xuống theo. Mẹ tôi quả đã có nhiều kinh nghiệm, người chỉ bắt mạch tay của Hoa, người đã nói: ” Con vào xóm gọi xích – lô, rồi con sang báo cho bà Chức “., Tôi hộc tốc sang bên bà mẹ vợ, rồi vào xóm gọi xích- lô.
Trong xóm có ba người hành nghề xích – lô, tôi phải đến nhà người thứ hai là ông Nhân mới gặp. Tôi và bà già vợ chuẩn bị tíu tít những thứ cần thiết cho Hoa nở nhụy. Mẹ Hoa cùng ngồi xích – lô với Hoa, vào nhà thương Hùng Vương. Tôi đêm ấy, phải coi nhà bên mẹ vợ, vì chỉ có cô em út Kim Anh 12 tuổi ở nhà. Sáng sớm mai tôi phải, phóng sang Phú Nhuận để xin nghỉ ”vợ đẻ“. Khoảng gần 10 giờ từ trên tổ mộc Thành Công phóng xe đạp về tới nhà, thì được biết bà Chức sáng sớm, đã về báo Hoa sinh con gái được 2 kg 800 lúc gần sáng, ”mẹ tròn con vuông“. Tôi chạy vội về nhà báo tin vui cho thầy mẹ của tôi, mẹ tôi miệng thì cười, nhưng lại phải lấy khăn lau nước mắt. Người cứ luôn miệng lẩm bẩm: ”Cảm tạ Chúa và mẹ Maria“. Tôi trèo lên giường thầy tôi, thầy tôi đang nằm, nghe tôi nói Hoa đã đẻ con gái, thầy tôi bò dậy ôm lấy tôi, miệng người thì thào:
- Thầy vui… mãn nguyện….. lắm!
Tôi xuống bếp gầy vội nồi cơm cho thầy mẹ, rồi còn phải ra chợ mua một hộp sữa, do tiền mẹ tôi đưa, để đưa sang bà nhạc mang vào nhà thương cho mẹ con Hoa. Tôi nóng lòng muốn nhìn mặt con gái của tôi, khi nãy bà nhạc đã cười, bảo tôi:
- Anh đặt tên cho con gái, tí nữa mẹ vào báo cho nhà thương!
Như vậy tôi đã có con, tôi đã làm bố rồi, điều mà trước đây tôi có bao giờ nghĩ tới đâu? Tôi chạy sang bà mẹ vợ, tôi chạy về nhà, tôi chạy xuống bếp, tôi leo lên gác. Tôi chẳng biết chạy đi đâu! Và tôi chạy để làm gì? Tôi cũng không biết nữa? Tôi nghĩ đến thằng Lợi, thằng bạn thân thương nhất của tôi, con gái của nó tên là Linh, tôi cũng muốn đặt tên con gái của tôi là Linh nhưng phải khác một tí là Lynh. Tôi nhìn cây mai ở nhà, cây mai tươi tốt nhưng chưa một lần có hoa, mấy hôm trước lại có một cái nụ duy nhất. Cây mai, tôi đã đứng cạnh, để chiêm ngưỡng em Hoa lần đầu. Vậy tôi sẽ đặt tên con gái của tôi là Mai Lynh. Tôi chạy vội sang bà nhạc để nhờ mẹ vào nhà thương đặt tên cho con gái là Mai Lynh.
Tôi vừa bước chân về nhà, hôm nay tôi thấy lạ ! Ngồi trong màn thầy tôi thò tay ra vẫy tôi vào, tôi trèo lên giường, trong nỗi vui vì con gái tôi, còn đầy ắp trong lòng. Thầy tôi rút trong người ra, đưa cho tôi một cái bút Parker đút trong một cái túi nhung đen con. Chiếc bút mầu mận chín còn mới tinh, chưa có mực. Chiếc bút ”made in USA . Không biết thầy tôi cất giấu từ bao giờ, nhưng chắc phải từ trước 30-4-1975. Tôi chỉ biết ôm lấy thầy, miệng hổn hển:
- Con xin cảm ơn thầy!
Lòng còn đang xốn xang với vợ và con gái trong nhà thương, nên tôi đã cất chiếc bút vào túi, tôi lại vào giường trong nói chuyện với mẹ tôi. Lòng tôi vẫn thấp thỏm băn khoăn với chiếc bút Parker 51 trong túi, cũng như lọ mực Waterman thầy tôi cho, hơn một tháng trước. Tôi vẫn không hiểu được ý của thầy tôi? Chẳng lẽ người muốn tôi đi học? Tôi đã 44- 45 tuổi rồi, còn đang chạy ăn từng bữa một thì học hành gì? Hay thầy tôi cho bút mực để viết kiểm điểm với các cơ quan của CA? Hỏi mẹ, hỏi vợ cũng không đoán ra, nên tôi đành cất đi? Tôi chợt nghĩ đến đứa con gái mới đẻ, tôi đã đặt tên rồi mà, bố vẫn chưa thấy mặt của con. Hay người cho bút mực để con gái của tôi đi học? Điều này thì tôi chưa thể xác định, điều trước nhất là hai giờ chiều nay, tôi phải lên tiểu ban Quản Lý Những Người Học Tập Được Về.
Hôm qua có giấy gọi tôi phải lên đúng hai giờ để biết rõ: Lệnh tạm trú ba tháng của tôi, sau khi làm kiểm điểm ba, bốn lần rồi! Có được lòng nhân đạo của Đảng cho gia hạn tạm trú, để phụng dưỡng bố mẹ mù lòa, lẩn thẩn hay phải đi vùng kinh tế mới? Rồi lá đơn xin Đảng và Nhà Nước mở vòng tay của người cùng một nước, cho tôi trở lại nhà tù? Tôi đã viết và nộp hơn ba tháng rồi? Bây giờ vợ lại đẻ ! Bao nhiêu những gậy gộc, dao, búa chĩa vào tôi đe dọa. Cả hạt gạo, cũng trở thành hung dữ, ghét bỏ tôi, đe dọa cuộc sống của tôi.
Rã rời mệt mỏi, ngồi trên chiếc xe chân không muốn đạp, chiếc xe hình như cũng góp phần với gạo nước, củi lửa làm cho tôi càng mệt thêm, trên đường đến tiểu ban QLNNHTĐV. Tôi đã chuẩn bị những lời xin xỏ, chống đỡ, tai cũng sẵn sàng nghe những lời nạt nộ, quát tháo như mọi khi. Nhưng tôi đã ngỡ ngàng ngạc nhiên, cũng là tên trung úy Bội trước đây, hôm nay y ăn nói nhẹ nhàng, tình cảm. Hơn một năm tôi chưa hề thấy ở y, nhất là sau khi tôi báo là vợ tôi đẻ con gái ngày hôm qua, nhưng tôi cũng chưa được nhìn thấy. Y chúc mừng tôi, y khuyên tôi phải giữ đạo làm con đối với bố mẹ già yếu tàn tật. Y đã cho tôi nguồn sinh lực cụ thể, y nói rõ ràng:
- Y chấp nhận, tôi được tạm trú nhà bố mẹ thêm ba tháng nữa. Vài ngày nữa, đứa con có khai sinh, cầm giấy ra trại của tôi, giấy khai sinh của con, giấy chứng minh nhân dân của vợ, giấy hộ khẩu của bố mẹ, sang phòng lương thực của Quận. Y đã có ý kiến với bên đó, họ sẽ cấp tem, phiếu gạo và thực phẩm, như mọi người. Riêng về quản chế tôi vẫn như cũ. Nghĩa là vẫn hàng ngày, tôi phải trình diện CA khu vực. Sáng thứ Hai mỗi tuần, phải ra trình diện ở cơ quan Phường. Thành phố, tiểu ban và Quận cần sẽ có giấy gọi. Chấp hành mọi quy chế ở tổ phố, như cũ .
Tôi có cảm tưởng như trước đây hai lỗ mũi của tôi bị nút kín, chỉ còn cái miệng, thở được chút nào thì hay chút ấy, nghĩa là khó thở, nghẹt, hoặc không thở được trong cuộc sống, bây giờ tôi được tháo nút ra một bên mũi.
Tôi vẫn xin cảm tạ cuộc đời!
Chiếc xe đạp, lúc đi thì ngang bướng, lỳ lợm; khi về thì ngoan ngoãn dễ bảo, chỉ thấy một tí đã về đến nhà rồi. Cũng căn nhà của bố mẹ, mỗi ngày tôi đi lao động trở về nhìn nó xám, nó xỉn lại, nó khắc khổ, rũ rượi, thế mà hôm nay rõ ràng nó tươi tắn hẳn lên. Nó như mở to mắt mà còn cười đón tôi về. Tôi đã ôm lấy thầy tôi, ôm lấy mẹ tôi báo cho các người: Tôi và con gái đã có tem phiếu gạo, tôi chạy sang cả bên bà mẹ vợ để báo tin vui này. Hôm nay, tôi chạy ra chợ chiều muộn, để mua một bó rau đay và cua rốc. Đặc biệt thêm là mua cà ghém sống, món mà bố mẹ, Hoa và tôi thèm đã từ lâu, nhưng chỉ được ăn cà ghém nén, nhà bà Lân.
Cái món cua rốc mẹ tôi vẫn khao khát thèm, hôm nay tôi ra sức làm một bữa rau đay cua đồng, ăn với cà ghém chấm mắm tôm chanh. Tôi hì hục giã cua, lọc cua, chiếc cối là chiếc mũ sắt và chiếc chầy đã lâu ngày quên cả mùi cua rốc. Thành ra nó gật lấy, gật để vào những con cua liên hồi. Tiếng chầy giã cua nhịp nhàng, réo rắt như điệu “Rumba”. Chỉ một loáng đã nhuyễn, cái mùi cua rốc là cái mùi của ruộng đồng, của đất, của nước, của quê hương. Khi nó sôi lên, mùi đất nước, mùi quê hương ngạt ngào phả khắp dưới bếp, trên nhà. Mẹ tôi từ trong màn gọi vội ra:
- Con làm cho nước miếng của mẹ, ứa ra mấy lần rồi!
Nghe mẹ nói, lòng tôi mát rười rượi, có cần gì phải giầu sang, tiền bạc đưa cho mẹ? Chỉ cần một tấm lòng chân thật, với những thức ăn của ruộng đồng mộc mạc, giản dị của quê hương. Một bữa cơm đơn sơ, tràn ứ tình phụ mẫu, nghĩa phu thê về chiều. Cơm xong, tôi tranh thủ mang sổ đến nhà cô Ngọc Anh trình diện, về đến nhà, vội vàng dọn dẹp, rửa chén bát rồi lên gác đi ngủ sớm. Tôi đã có chủ định, sáng sớm mai, sẽ vào thăm em Hoa và nhìn mặt cô con gái Mai Lynh của tôi.
Nhưng nằm xuống, đâu có ngủ được, cô vợ và đứa con gái cứ thập thò đứng bên cạnh chuyện trò lúc rõ, lúc mờ. Hình ảnh tên Bội của tiểu ban QLNNHTĐV cũng mò vào, miên man, tôi chợt nhận ra lòng nhân đạo của Đảng đối với tôi. Sâu hiểm thật!
Một ông già lẩn thẩn gần tám chục tuổi, một bà cụ mù lòa là một gánh nặng cho xã hội. Một tên tù xác xơ, lại cho nó vào tù nữa, như một con vật phế thải, bỏ đi, để nó ở nhà nhưng đóng đai lại để nó lo lắng phục vụ bố mẹ già của nó, vừa làm cho những chòm xóm, thân bằng, gia đình nó thấy được độ lượng nhân ái thương dân của Đảng; lại vừa nhẹ gánh cho chính quyền địa phương. Chỉ cần quản lý nó chặt, lấy bớt một nút ở lỗ mũi của nó, cho nó dễ thở một chút, nó mới có sức làm công việc phục vụ hai ông bà già mù lòa, tàn tật này, không ai làm công việc này, tốt hơn nó.

 
43. THẦY VỀ VỚI TỔ TIÊN

Rồi tôi chui tuột vào trong giấc ngủ Nam Kha lúc nào không hay, bỗng nghe có tiếng gọi giật gọng của mẹ tôi:
- Bình ! Bình ! Bình ơi !
Mắt nhắm, mắt mở, tôi chồm xuống thang, lật màn mẹ, thì mẹ tôi đã nói như thúc giục:
- Con xem thầy con thế nào?
Tôi quay vội sang màn thầy! Thầy tôi nằm xoay ngang ra cái giường, người đang khò khè lúc to, lúc nhỏ, tôi vội ôm thầy tôi, đặt nằm ngay ngắn, gối đầu cho người cẩn thận. Tôi hướng sang màn mẹ tôi, nói khẽ:
- Con đã đặt thầy, nằm thẳng lại rồi.
Nói rồi tôi mò lên gác vì mệt và buồn ngủ quá! Chừng hơn một giờ sau, tôi còn đang chập chờn ngao du vào xứ mộng, thì mẹ tôi lại gọi nữa:
- Bình ơi! Con, con xuống xem thầy ra sao? Mẹ thấy khác thường lắm !
Tôi cũng thấy trong lòng một cảm giác lạ thường, vừa nóng, vừa lạnh như trong mùa Đông không đủ áo. Tôi hấp tấp leo xuống thang, nhìn vào màn thầy, thầy tôi vẫn nằm trong tư thế khi nãy, tôi cầm tay thầy tôi gọi khẽ:
- Thầy ơi ! Thầy !
Không còn có tiếng khò khè lúc trước, tôi gọi to hơn:
- Thầy, Thầy ơi!
Tôi để một ngón tay vào mũi người, người không còn thở nữa, tôi quay sang màn mẹ tôi, nói trong nước mắt:
- Mẹ ơi! Thầy đã chết rồi!
Mẹ tôi gào lên:
-Ối ông ơi! ông bỏ tôi… ông đi!
Mẹ tôi vật vã, gào thét, tôi vào ôm lấy mẹ tôi, cổ tôi nghẹn lại không nói ra lời, nhưng nước mắt của tôi cứ cuồn cuộn giàn ra. Bà Chức đã chạy sang, tôi chỉ kịp quay lại nói:
- Mẹ trông nhà giùm con, con sang nhà cô chú Tuất, con về ngay.
Sang tới nhà cô Xuân bên Lăng Cha Cả, tôi đập cửa, mới 5 giờ sáng, tôi chỉ kịp nói với em Xuân: “Thầy chết khoảng 4 giờ sáng!”. Vội vàng, tôi dặn thêm:
- Em cho các cháu đi báo cho cô Thu, mợ Út, họ hàng. Em bảo con Lan hay thằng Cường lên Hồng Ngự báo cho chị Hai và các cháu nhà thím Lý.
Tôi phóng vội về nhà vì nhà không có một ai. Về đến nhà thì đã đầy người, bà con, hàng xóm, không biết ai báo. Cô Thu đang ôm mẹ tôi ở trên giường, người cứ vật vã, khóc không còn ra tiếng nữa. Chỉ là những tiếng khào khào, như tiếng con ngan đực gọi vợ, gọi con, gọi đất trời!
Càng về trưa, nhà tôi đông nghẹt các ông, các bà, không có trầu mà cũng chả có nước uống, nhưng tất cả mọi người đều thông cảm cho cảnh huống neo đơn của gia đình tôi. Nhìn đám đông các ông bà già cả, trẻ con, người lớn, xúc động, tôi thấy được nghĩa tình của xóm phố, luồn sâu vào trong đó có cả cái nghĩa của người cùng một nước.
Nhiễu điều phủ lấy giá gương.
Người trong một nước, phải thương nhau cùng.
Một mặt khác, cũng phải có một sợi tơ tình nhỏ bé là trước đây cuộc sống của bố mẹ tôi đối với xóm giềng cũng phải có tình, có nghĩa, có thủy, có chung.
Những anh em biệt kích và những bạn tù địa phương ngoài Bắc của tôi, như Tuấn Nguyệt, Mạc Lịch v.v… cũng đến viếng xác thầy tôi. Chắc anh này báo cho anh kia, tôi không thể báo được cho ai. Điều này cho tôi càng thấy rõ: Trong cuộc sống tiền tài, vật chất thật là quan trọng, nhưng xuyên suốt toàn bộ, tình và nghĩa là quan trọng nhất, là Kim Chỉ Nam của kiếp sống con người.
Do cuộc sống quá cực khổ, lầm than dưới nanh vuốt của con Hồng Tuộc, hầu hết người dân thấy tiền là trên hết:
Tiền là Tiên….là Phật…là sức bật…v.v…
Nó chỉ đúng 80 – 90 phần trăm, chứ dứt khoát không phải tất cả Trước đây ông bà mình có câu: “Có tiền….mua tiên cũng được !”
Nhưng chắc chắn không thể mua được lòng Trời, dù cho có bao nhiêu tiền, chúng ta dù ai, cũng phải thừa nhận: Có những sự việc, những loại không phải có tiền mà mua được! Có những loại tình, loại nghĩa không thể mua được bằng tiền. Sự già, sự trẻ, chết và sống v.v. . . Đầy dẫy những thứ không phải từ đồng tiền.
Do những tấm lòng của thân nhân, họ hàng, bạn bè và bà con xóm giềng, có cả Cha Bình, Cha làm phép cưới cho tôi và Hoa, Cha vào làm phép xác tại nhà. Ba ngày sau đưa thầy tôi ra nghĩa địa ở Nam Hòa. Đi theo đám, ngoài mẹ tôi (có cháu Lan dìu), các em, các cháu, họ hàng và bà con thân thuộc. Tôi là người con trai duy nhất chống gậy, đội mũ rơm đi sau quan tài.
Có một số điều kỳ diệu:
- Thầy tôi cố chờ tôi tròn 20 năm (1962- 1982)
- Cháu đích tôn của người vừa ra đời ngày hôm trước, thì người vào cõi vĩnh hằng, ngày hôm sau.
Như thế sau này, cứ ngày sinh nhật của cháu Mai Lynh, hôm sau là ngày giỗ của ông nội.
Cũng thật là một sự việc khó quên, hai mẹ con Hoa ở nhà thương về phải ở bên bà nhạc. Thậm chí khi đưa đám thầy tôi rồi, mà mẹ tôi dứt khoát chưa cho mẹ con Hoa về nhà, vì người không muốn bà đẻ có hơi hướng tử khí. Người muốn phải để một vài ngày, cho không còn hơi hướng và phải rẩy nước phép cả trên gác dưới nhà. Tôi hiểu không hợp lý tình lắm giữa tâm linh và khoa học. Tốt nhất là tôi phải vâng theo ý của người, nhưng chắc chả ai cấm được cái chân và khóa được trái tim của tôi, với vợ và con gái yêu của tôi. Thành ra trong ba ngày tôi phải phục tang, hễ khi nào nghỉ ngơi, ăn uống là tôi thay quần áo tang, để chạy vội sang chuyện trò với vợ con, một ngày chả biết mấy lần.
Con gái cưng của tôi nó như con chó con, cái mũi tí hon, cái tay bé tí, đôi mắt của nó nhỏ xíu, long lanh như hai hạt kim cương, cứ trừng trừng nhìn tôi. Con ngươi của nó, chuyển hết từ mầu hồng sang mầu xanh, rồi chuyển lại mầu hồng như muốn nói:
- Con đã biết, bố là bố của con rồi nhé !
Tôi cúi xuống thường cho nó một cái hôn nồng nhiệt, con gái của bố mới có bốn, năm ngày mà đã thông minh thế!
Một lần tôi bế nó trong lòng, nó dám run rẩy giơ bàn tay “ngọc” lên cằm sờ râu của tôi (mấy ngày lo đám ma, không cạo). Tôi tức mình “quắc” mắt lên ”lườm”nó, như muốn cho nó biết “oai” :
- “Cô nương” dám sờ râu “cọp” à ?
Lườm thì lườm, nhưng tôi vẫn hôn lấy, hôn để, cái mùi thơm từ khi lớn lên tới giờ, tôi chưa bao giờ được ngửi mùi thơm kỳ diệu, nó như… tôi chịu, tôi phải nhờ những nhà văn nào có tài, may ra mới lột tả được! Tôi chỉ thấy nó… tuyệt vời lắm, như hơi của “tiên nga” vậy. (Tôi đã được hôn đâu, mà biết?).
Sau đám tang của thầy tôi chừng một tháng, một hôm thằng Lợi mách và bầy mưu cho tôi:
- Tao có quen một bác tên là Nhiên, bác thầu nhiều công trình để tu sửa, bác là người của chế độ cũ, nên bác trả lương cho người công nhân, rất “biết điều”. Hiện nay bác đang thầu sửa chữa bệnh viện tâm thần ở Biên Hòa, tao có nói chuyện về mày, bác sẵn sàng giúp đỡ mày! Bác sẽ cấp cho mày cái giấy, nhận mày vào làm công nhân sửa chữa. Mày có giấy này, mày làm đơn xin với công an xem nó có cho mày đi một tuần. Cứ một tuần về trình diện một lần, có giấy chứng nhận mày làm việc, ở bệnh viện tâm thần Biên Hòa!
Tôi đã làm một lá đơn, đầy đủ tình lý lên Tiểu Ban Quản Lý Những Người Học Tập Được Về, rồi ra Phường, lên Quận, xuống CA khu vực, cả chữ ký của ông trùm Lộc (khu phố), lại lên Thành gần một tháng trời, đi về. Cuối cùng, tôi được chấp nhận cho trình diện mỗi tuần, với điều kiện phải có giấy xác nhận của Bệnh Viện Tâm Thần Biên Hòa, hàng tuần.
Đúng là đường đi của tôi từ chỗ lội bì bõm bùn lầy đã lên đường đi, dù là đường đất nhưng không còn chỗ lầy lội. Tôi đã được gặp bác Nhiên, bác chừng 60 tuổi, bác đang ở tạm tại nhà của một đại úy công an, trong khu Tam Hiệp gần bệnh viện tâm thần Biên Hòa. Tôi cũng được quen biết vợ chồng Phạm Lộc là con của bác Nhiên. Vợ của Lộc là cô Liên, cả hai vợ chồng đã lên nhà tôi chơi nhiều lần ở Ông Tạ. Để tiện công việc làm ăn, tôi cũng được ăn ngủ ở nhà anh đại úy CA, với bác Nhiên.
Anh đại úy CA này tên là Trường, người Lái Thiêu, vợ của anh là chị Hiền, là con gái của một ông Giám Đốc hay Thứ Trưởng Bộ Y Tế thuộc chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. (Được biết, ông này ngoại giao giỏi, nên ngoại quốc giúp đỡ thuốc men nhiều, vì thế cộng sản vẫn dùng để ông này xin thuốc). Cuộc tình giữa con gái của một thế gia, với một đại úy CA, hẳn cũng có nhiều vấn đề xã hội. Anh chị Trường + Hiền ở một căn nhà to có vườn cây chung quanh, anh chị đã có hai đứa con bốn năm tuổi.
Hàng ngày, tôi đi làm với bác Nhiên, bác phụ trách một đội công nhân tu sửa bệnh viện, chừng gần hai chục người. Anh Trường và tôi thường hay tâm tình, anh thường vui vẻ nói đùa: “Anh (chỉ tôi) 18 năm tù, còn tôi cũng suốt 18 năm đi phục vụ Cách Mạng, sống heo hút trong núi rừng “.
Anh Trường có cái thú uống trà và hút thuốc lá ba số 5, ở một phòng khách nhìn ra vườn cây. Những ngày mưa dầm, những đêm trăng tỏ, tôi và anh đổi trao hai mảnh đời ở hai chiến hào đối nghịch. Và hiện nay, anh ở phía chiến thắng có tiền, có quyền, có vợ đẹp con khôn. Tôi ở phía chiến bại, không tiền, mất quyền công dân, hàng ngày đi làm cu- li, nắng mưa trèo leo, chui rúc để kiếm miếng cơm cho mình, cho mẹ già và vợ dại con thơ. Cứ chiều thứ Sáu, cùng với “ông” xe đạp ra tàu, đi về với vợ con để chiều Chủ Nhật, trở lại bệnh viện làm cu- li.
Những buổi sáng, những buổi trưa, ngồi nhâm nhi ly trà hoặc cà phê “vị đời” trong những quán nước trước cổng bệnh viện chờ giờ mở cửa. Đủ mọi thành phần công nhân, chuyên môn, cán bộ, từng nhóm ồn ào hay trầm lắng. Do những “vi ba” của sóng mắt, tôi quen biết một cậu tên là Lê Hiệp. Cậu có nước da bánh mật, chừng 29- 30 tuổi, đôi mắt cậu “lắng đọng” trầm ngâm, hay dõi nhìn những đám mây trời đen trắng.
Để rồi tôi được biết cậu là bác sĩ chuyên về não bộ, cậu còn là bí thư chi đoàn thanh niên cộng sản của bệnh viện. Cậu là con một điền chủ, của một cơ sở cách mạng thuộc tỉnh Cần Thơ. Cậu đã có ba năm y khoa dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa, mấy năm cuối và ra trường dưới chế độ này. Như tôi đã trình bày quan điểm từ trước: Nếu muốn tiếp xúc với cuộc đời bằng những bàn tay xòe mở rộng, thì sẽ gặp những bàn tay mở rộng, xòe cả năm ngón. Ngược lại bằng những bàn tay nấm chặt khư khư, thì cũng sẽ có những nắm đấm đối xử lại. Gieo bắp thì thu lượm bắp, gieo lạc thì sẽ thu hái lạc.
Sau khi cậu biết tôi từ trong hang tối chui ra, cậu lại rất quý mến, nhiều buổi cậu đã bỏ những đám bác sĩ, y tá áo trắng đồng nghiệp để, đến bàn một anh chàng cu- li, người chẳng giống ai để tâm tình, trò chuyện. Qua nhiều những dò dẫm, lòng ướm thử lòng, cậu đã nói rõ:
- Anh tìm được đường nào “oversea”, anh báo, gọi em sẽ theo anh. Ngược lại, nếu em có “mối”có “đầu”anh sẽ đi với em !
Nhiều những ước định hẹn hò thỏa thuận, nếu như mưa thuận, gió hòa, gặp thời cơ thì sẽ nẩy mầm sinh hoa, kết trái cho đời. Cậu là một người trí thức đã đắm mình trong lò máu mê và độc dược, của con Hồng Tuộc. Điều cậu băn khoăn khắc khoải nhất là: Hiện nay dân tình lầm than đói khổ, xã hội bị khóa chặt trong một căn nhà. Người dân bị bịt mồm, bịt mắt, thuần phong, đạo lý bị đảo lộn, tình người như nắng hạn kinh niên.
Vậy tại sao cái chế độ phản dân chủ đó vẫn tồn tại? Tôi hiểu đây là một vấn đề lớn của đất nước, và của thời đại, không thể vội vàng hồ đồ thiếu sàng lọc cân nhắc! Vì thế tôi xin hẹn cậu một bữa khác, sẽ cho cậu biết cái chủ quan hạn hẹp của tôi.
Ở giữa mảnh vườn rộng, nhà đại úy công an Trường có một căn nhà con, chắc xưa kia là nhà để hạt giống và dụng cụ làm vườn. Vì tôi thích thoải mái, phóng khoáng nên tôi đề nghị với anh Trường và chị Hiền, tôi dọn dẹp và sửa chữa căn nhà đó, kê được một cái giường và một số đồ lặt vặt. Tôi sẽ ra đó ở và ngủ đêm, để nghe chim hót, côn trùng ca nhạc và những tiếng thì thầm, trong đêm thâu của cây vườn.
Đã hơn ba tháng, căn nhà với tôi đã hít thở, đánh hơi nhau như người nhà, như bạn bè gần gũi thân quen. Một đêm vào khoảng 2 giờ sáng, tôi còn mê mệt sau một ngày leo trèo trên mái nhà, để đảo ngói (vì dột) một căn nhà rộng, thuộc khu da liễu của bệnh viện. Bỗng có nhiều tiếng huỳnh huỵch của bước chân, tiếng lách cách của sắt thép, rồi tiếng hô giật giọng, của một người giọng Bắc rặt:
- Bò dậy và giơ tay lên!
Tôi choàng ngồi dậy, ánh đèn bấm loang loáng, hai người đứng đầu và cuối giường, lăm lăm chĩa hai khẩu AK 45 vào tôi. Hai người nữa đeo súng ngắn, mặt tên nào cũng đằng đằng sát khí, chúng bắt tôi đưa giấy tờ, tôi chẳng có một giấy tờ gì, ngoài cái giấy ra trại của bộ nội vụ. Thấp thoáng phía bên ngoài còn hai tên nữa, cũng lăm lăm hai khẩu CKC thập thò ngoài cửa. Hai tên đeo súng ngắn, đeo lon thiếu úy và trung úy, chúi đầu xem tờ giấy ra trại rồi chúng nhìn nhau. Bốn mắt chúng vừa như vui mừng, vừa như ngơ ngác nhìn một con thú lạ, mà chúng chưa xác định được, là loại gì?
Chúng bật hẳn đèn điện lên, dù ngọn đèn chỉ có 25 watts cũng đủ để thấy rõ mắt của hai tên cầm giấy càng trắng ra, như không tin vào đôi mắt của mình. Tên trung úy cầm giấy, còn chiếu đèn bấm vào cái giấy ra trại, của tôi xem lại. Tôi suy đoán qua thái độ của hai tên chỉ huy, giấy này là của bộ nội vụ, nghĩa là từ trung ương Hà Nội. Mười tám năm tù giam từ 1962, từ khi chúng còn là một cậu bé 9 – 10 tuổi, cái tội gián điệp, chỉ cái từ này hình như đã “dị ứng” với chúng ở giai đoạn ấy.
Mấy ngày nay, anh Đại úy Trường CA đi công tác xa không có nhà, hai tên đeo súng ngắn thì thào với nhau một lúc, rồi chúng yêu cầu tôi theo chúng về đồn. Hai tên mang CKC đi trước, hai tên cầm hai khẩu AK theo phía sau. Khi trở về sân nhà, chị Hiền và bác Nhiên nhìn tôi đi giữa 6 người súng ống, mặt lầm lì. Bác Nhiên và chị Hiền nhớn nhác lo sợ. Tôi bình thản nói với chị Hiền và bác Nhiên:
- Chị và bác giúp tôi, cho người về Sài Gòn báo cho vợ tôi biết nhé ! Và cứ yên tâm!
Chúng dẫn tôi đến một chiếc xe đò Đồng Nai, đã xỉn mờ đi hai ba chữ, đậu khuất nẻo trong một khóm tre đầu ngõ. Thái độ của chúng đẩy tôi lên xe, súng ống bố trí trước sau, cứ sợ như tôi chạy trốn, tôi đã định ghé vào tai tên Trung úy người Bắc nói cho y rõ :
“Tôi đã làm đơn trở lại nhà tù từ 7- 8 tháng nay rồi, tại sao tôi lại chạy? “.
Tuy vậy, tôi cũng thấy lóe ra một vấn đề của anh Đại úy Trường, đang đêm súng ống vào nhà một Đại úy CA để bắt người, lại bắt vào lúc anh không có ở nhà, kết hợp với những đổi trao tâm tình nhiều lần giữa anh và tôi. Chúng dùng một tên người Bắc chỉ huy vụ bắt bớ này, rõ ràng chúng đã không còn tin tường hoàn toàn vào anh Trường! Anh vẫn có, vẫn còn cái tính bộc trực thắng thắn của người miền Nam. Anh lại lấy con gái của một công chức cao cấp của chính quyền “ngụy” thì hẳn những quan hệ, những giao tế sớm muộn dần dà đã nẩy sinh tự nhiên trong cơ thể của anh một số chất “miễn nhiễm”đối với những nọc độc, thuốc lú, thuốc mê của chủ nghĩa cộng sản bịp bợm.
Về tới đồn CA mới gần 4 giờ sáng, trời hãy còn tối đất nên chúng giam tôi vào một cái buồng con bằng tre, nứa phía sau đồn. Nhìn những phên nứa, nhìn những dây lạt buộc những thanh tre của cửa và vách. Tôi tự nghĩ nhà giam tôi lúc này, không phải là căn buồng này, mà là cái đầu của tôi thôi.
Cho tới trưa ngày hôm sau, chẳng có ai hỏi han gì đến tôi, thoáng mấy tên CA đi lại từ xa, tôi gào gọi để hỏi, thì tên nào cũng trả lời không biết ! Cũng chẳng có cơm nước gì! Mãi tới chiều mới có tên tù hình sự, đưa vào cho tôi một bát cơm gạo hẩm, với miếng cá khô. Đói khổ đã quen, nên không trở thành vấn đề lấm ! Chỉ cần ngày một bát cơm như thế thì tôi chịu được.
Đúng như rằng, ngày hôm sau, cũng chẳng hỏi han đến và cũng chỉ một bát cơm hẩm như vậy. Nhưng tôi tin rằng với những phương tiện liên lạc có thể như điện tín, hay xe cộ v.v. . . chúng đã hỏi hay báo về Biên Hòa; có khi về tới Sài Gòn rồi.
Sáng hôm sau nữa, khoảng 10 giờ, một tên CA vào mở buồng, giọng Biên Hòa rổn rang:
- Anh mang hết đồ đi ra ngoài!
Ra đến sân đồn, y dẫn tôi vào một văn phòng, cậu Tập đang ngồi với một tên Trung úy CA, quay ra cười với tôi. Tên Trung úy CA, cầm tờ giấy ra trại của tôi, y cười rồi đưa trả lại tôi. Cậu Tập đứng lên bắt tay với y, rồi ra hiệu cho tôi theo cậu ra sân. Tôi cũng chẳng cần chào tên Trung úy, bốn năm tên CA nữa thập thò phía trong, cậu Tập dẫn tôi đến một chiếc Honda dựng ở một góc sân. Ý của cậu Tập là đưa ngay tôi về Sài Gòn vì bà cụ (mẹ tôi), vợ tôi đang nóng lòng mong đợi tôi ở nhà.
Tôi đề nghị cậu Tập, đưa tôi vào Tam Hiệp đến nhà chị Hiền đã, và cái tôi cần giải quyết đầu tiên, khi nhìn thấy một quán nước bên đường. Tôi đã ăn hết một cái bánh tét và ba quả chuối tiêu to .Tất cả 1 đồng 20.
Bác Nhiên và anh Trường không có nhà, chỉ có chị Hiền và mấy đứa nhỏ, nội dung sự việc:
Đã từ lâu CA Biên Hòa đã rình để bắt Cao Xuân Huy (hiện ở Califomia, viết “Tháng Ba Gãy Súng”). Được báo Huy là sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến, đang bí mật tổ chức vượt biên, chúng dò được Huy vẫn lén lút đi về ẩn náu trong nhà của Đại úy CA Trường. Anh Trường lại là phó phòng ngoại vụ, của sở CA Biên Hòa, nhưng đã có nhiều biểu hiện tiêu cực, nên chúng để lại như một hình thức; mà không còn thực quyền. Chính vì những mâu thuẫn lằng nhằng này nên chúng đã vồ “hụt” Cao Xuân Huy, nhưng lại vớ được tôi, một tên gián điệp do CIA đào tạo, đã ở tù 18 năm ngoài Bắc. Giấy còn ghi rõ, không có quyền công dân trong 5 năm.
Ngay ngày hôm chúng bắt tôi, bác Nhiên đã mang giấy chứng nhận của bệnh viện tâm thần Biên Hòa: “Tôi là công nhân hàng ngày làm việc, trong đội sửa chữa của bệnh viện”. Anh Trường về đã giận dữ phản đối . Tóm lại với giấy tờ thật của bộ nội vụ, và sự xác nhận của bệnh viện Biên Hòa, chúng đã biết bị lầm. Nhưng từ xưa những việc chuyên chính với thành phần đối kháng, thì lầm cũng không bao giờ có lỗi.
Cậu Tập, là ủy viên tài chánh của một phường, ở Sài Gòn lên lĩnh cháu về. Dù sao tôi cũng biết ơn cậu Tập, đã có công lên đón tôi về, đã nói lên tấm lòng của cậu mợ, quan tâm đến đứa cháu rể .
Sau này nói chuyện lại, lúc đầu bác Nhiên, chị Hiền và cả anh Trường tưởng tôi bị bắt, vì do tôi bí mật hoạt động gì đó, nên mọi người đều xanh mắt lo lắng. Khi biết rõ là lầm, bác Nhiên mới lo giấy tờ xác nhận của bệnh viện, anh Trường mới nổi nóng phản đối, vào nhà anh, một đại úy CA để bắt tội phạm. Điều này cũng đã nói lên nhiều vấn đề.
Tôi lại tiếp tục hàng tuần đi làm việc ở bệnh viện tâm thần Biên Hòa. Một buổi sáng, tôi và mấy người lúi húi sửa tường và mái của một căn nhà kho, trong một cái hẻm của bệnh viện, thoáng một bóng trắng từ khu nhà thí nghiệm len lỏi vào chỗ chúng tôi đang thi công. Từ xa tôi đã biết là bác sĩ Hiệp, tôi tiến ra, cậu đã vồ lấy tay tôi, như gặp lại một người thân lâu ngày xa cách:
- Anh làm em mấy đêm không ngủ, em lo cho anh quá!
Giọng miền Nam của cậu đã được giao thoa, trong cộng đồng dân tộc, nghe như mưa rào cuối xuân của Đà Lạt. Mai là ngày nghỉ của cậu, cậu có nhã ý muốn tôi đến chỗ cậu ở trong đêm nay, trưa mai cậu sẽ đưa tôi trở lại bệnh viện để làm việc.
Cái chính là, những lần trao đổi tâm tình với cậu, tôi tỏ ra là người rất say đắm thiên nhiên, cậu cũng đồng quan điểm thưởng ngoạn như tôi. Theo cậu, nơi cậu ở hiện nay, phong cảnh rất có nghĩa tình với cậu, nên cậu muốn tôi cùng thẩm nhận với cậu, như cùng khao khát một món ăn của tinh thần.
Tôi biết ngoài những công việc chuyên môn bận rộn, lại ôm một trọng trách là bí thư, của chi đoàn thanh niên cộng sản của cả bệnh viện, phải là một người đỏ cả chân tay, mặt mũi, nếu không (ít ra con Hồng Tuộc đã tin) cơ thể, tim, óc của cậu đã được ướp ngâm, dầm trong rãi, rớt đầy nọc độc, mê, lú của nó, như đã được cấy “sinh tử phù “.
Bác Nhiên đang có mặt ở trong nhà kho, tôi vào tỏ ý xin nghỉ buổi sáng mai, bác sắp sếp người thay tôi. Bác Nhiên đã nhìn thấy bác sĩ Hiệp, đứng nói chuyện với tôi, Hiệp lại là thành phần lãnh đạo của bệnh viện, nên bác vừa gật đầu, vừa chớp con mắt, đang nhiều lòng trắng của bác, như một dấu “hỏi” to tướng và đen ngòm. Tôi lại trở ra với Hiệp, ngay sau buổi làm chiều hôm ấy, tôi gửi “ông“xe già của tôi ở một buồng quen.
Tôi và Hiệp rong ruổi trên chiếc Honda, trở về xã Bình Trước Biên Hòa. Không ngờ chỗ Hiệp ở, gần rẻo một nhánh của sông nước Đồng Nai, những cây trái và những ngọn dừa, cành lá rung rinh xào xạc như reo vui, mừng đón chúng tôi về. Mới nhìn thấy cảnh mà lòng tôi đã lâng lâng dạt dào cảm xúc, chả trách Hiệp đã ngẩn ngơ ca tụng, với tôi mấy lần. Nhà Hiệp mướn là một căn nhà nhỏ, xinh xinh ở cách gần 100 mét , một xóm quần tụ gần hai chục căn, lẫn lộn nhà gỗ và nhà gạch. Ở giữa khu xóm là một căn nhà cao, có lá cờ đã ngâm trong máu, đã ướp nhiều độc dược và thuốc mê. Nhìn lá cờ đang ngoe nguẩy giẫy dọn trên mấy ngọn dừa, tôi có cảm tường nó đang rắc những phấn độc, phấn lú để mọi người không thể nhìn rõ được thân hình, tim gan của nó.
Trong nhà của Hiệp chỉ có sách vở và treo những hình ảnh của Marx, Engel và Lénine to tướng ở trên cao, phía dưới lúc nhúc 7- 8 tấm hình nhỏ hơn, của các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam trong đó có ông già không có gia đình, nhưng lại có nhiều vợ nhiều bồ và con rơi. Một chiếc tủ con hầu hết là sách vở chuyên môn y khoa của Liên Sô, Tiệp, Đức v.v… Một chiếc tủ to, nhiều tầng đầy sách đã phì hơi của chúng ra đầy phòng, mùi tanh của máu và súng đạn, thoáng có cả cuốn Tư Bản Luận, và cuốn Lénine Toàn Tập.
Hiệp xuống bếp vào buồng, lo chuyện của chủ nhà, khi ra nhìn thấy tôi đang tần ngần ngắm nhìn những tấm hình, Hiệp tiến lại gần hạ giọng:
- Chiếc áo choàng của em đấy mà!
Tôi quay lại, lắc đầu, dịu dàng nhìn cậu:
- Hiệp không cần thanh minh! Bây giờ, anh em mình định ăn món gì?
- Vì không định trước, chỉ có cá lóc kho và có ít sò huyết hôm qua.
- Tôi hỏi vậy thôi? Món ăn “tinh thần “ngoài kia, còn nhiều quá! Vậy “vật chất” chỉ cần qua loa, ăn ít cái này thì mới ăn nhiều cái kia được!
Tôi xắn tay, chạy xuống bếp cùng với Hiệp loay hoay làm một bữa cơm “nhẹ chất, nặng tình”. Nhìn một rổ sò huyết, tôi không tin Hiệp lại tìm mua những thứ này. Nó không biện chứng, hợp lý với một người chỉ cặm cụi vào học hành, sách vở lại còn yêu thiên nhiên? Nghĩ thế tôi hỏi thử sự suy đoán của mình:
- Hiệp cũng chịu khó, tìm được món sò huyết rất quý!
Hiệp đang thái hành, ngẩng lên nhìn tôi đăm đăm, như xét đoán cách nói và thái độ, của tôi là thực hay đùa? Rồi Hiệp chậm rãi:
- Có bao giờ em lại đi mua những thứ này! Họ biếu, họ tặng nhiều thứ lắm! Em đã đẩy ra từ chối nhiều lần, nhưng không phải lần nào cũng theo ý mình. Anh quên, em là bí thư chi bộ?
Trời tháng Bẩy, cứ đòi “nhẩy” lên giường, vừa mới cơm nước xong, bên ngoài trời đã cập quạng, gà đã lên chuồng. Hai anh em dọn dẹp, chén bát xong, đom đóm đã lập lòe ngoài phên dậu.
Một điều thú vị nữa, là Hiệp với tôi lại cùng có một sở thích lạ đời “thích bóng tối“ không phải để làm những chuyện mờ ám. Bóng tối thường có sự tĩnh lặng đi cùng. Mỗi khi trong cuộc sống gặp những sự việc khó khăn trở ngại, đêm thâu, tôi thích ngồi một mình, ngâm, dầm trong bóng đêm, để nghe những nỗi niềm da diết đầy vơi của nỗi buồn trong lòng, để suy nghĩ tìm một phương hướng chống đỡ, chuyển đổi những khó khăn vây quanh.
Hôm nay tôi thích đi trong đêm tối, bắt những con đom đóm để tìm lại một chút hơi hướng ngày “thơ” của tôi. Tôi đề nghị với Hiệp, trong ánh sáng của ngọn đèn 40 watts lủng lẳng giữa nhà, mắt của Hiệp long lanh như hai vì sao nhỏ, miệng cười khìn khịt:
- Em đang định rủ anh ra ngoài !
Đi với một anh đít đầu đều đỏ choét, như mặc chiếc “áo giáp”thật dầy, chống cả “lam sơn, chướng khí “. Hiệp và tôi đã đuổi bắt được mỗi người 5, 6 con đom đóm trong tiếng gió lướt thướt, dứt day với những cành lá của cây vườn. Đây đó trong bóng đêm, một vài chùm sáng lóe lên từ những ngôi nhà như những miếng bạc, miếng thiếc trong chậu mực Tàu. Một lần Hiệp đuổi vồ được một con đom đóm, xô vào một gốc cây, Hiệp cười ré lên, kéo tôi ra một đường làng, nói văng vào luồng gió:
- Em không nghĩ tâm hồn của anh còn “ngây thơ” thế?
Tôi cũng “quẳng” vào tiếng xạc xào của lá cành:
- Bù trừ kỳ diệu của cuộc đời, mà Hiệp!
Dưới ánh sao mờ, bốn người từ trong một đường giong tiến ra, đèn bấm lóe lên:
- Thủ trưởng đi thực tế tình hình !
Bốn người lại tiến vào một giọng khác! Qua dáng dấp và thập thò khẩu súng trên vai, tôi đã đoán ra rồi, nhưng Hiệp vẫn nói:
- Du kích xã này, họ đều là đoàn viên .
Sáng hôm sau, tôi dậy thật sớm, mới 5 giờ, trời còn tối, vừa là thói quen, vừa muốn thăm cảnh lạ, nhìn Hiệp vẫn say sưa với những chạy nhẩy của tối hôm qua, tôi lẹ làng lách ra ngoài, không gây một âm thanh. Tôi muốn gặp cây vườn để hít thở cái khí hậu mát rượi trong lành, của buổi sớm mai. Một tiếng còi tàu nhớn nhác te…..te……..cù……cú……..cu từ trong xóm, luồn vào luồng gió sớm vọng về, như gọi vừng Đông trở dậy.
Nhìn một con đường nhỏ, nhiều lá khô dẫn đến một cây đa già, cành lá xum xuê, to cao nhất vùng, tôi rảo bước tiến về phía cây đại thụ. Cây đa gốc rễ rườm rà ôm cả một khoảnh đất rộng. Một cái am quét vôi trắng, như chiếc rương con trong một cái hốc của gốc cây, có một bát nhang đã hương tàn khói lạnh. Trời êm ả dần, tôi nghe thấy cả tiếng thỏ thẻ của một đôi chim sớm, đang âu yếm dựa nhau trong một khóm lá, thập thò liếc nhìn tôi.
Phía Đông đã rạng ra, rồi đỏ dần lên rừng rực, làm vàng ửng cả lá lẫn cành đa. Một vệ đất thoai thoải dài xuống một con rạch cạn, vì nước triều đang xuống dần, tôi ngồi xuống một gốc soan, nằm nghiêng dài bên cây mít mật, đeo lủng lẳng những trái. Tôi ngồi đăm chiêu, nghe tiếng lá khô, khẽ thì thào với gió nhẹ, để chờ mảnh mặt trời ban mai bò dậy.
Tiếng con dế mèn ré lên ro ro cao vút, ở dưới gốc cây soan tôi đang ngồi, như ru hồn tôi vào cõi mộng. Một bàn tay êm ái đặt nhẹ vào vai tôi. Cậu Hiệp đã ngồi bên tôi từ lúc nào, đã làm tôi tỉnh hẳn, Hiệp nói như trách, như hờn:
- Sao anh không gọi em dậy?
- Nếu gọi Hiệp dậy, thì làm sao tôi nghe được tiếng hờn trách lúc này? Cũng như ông mặt trời hôm nay, biết là có người đợi, nên ông ở lỳ, không chịu “nhò” mặt ra.
Tôi đứng dậy kéo tay Hiệp:
- Trời còn sớm, anh em mình xuống dưới con rạch, nhìn mấy con cáy ra ràng!
Hai anh em lần theo mép nước mé rạch, tôi kéo vội Hiệp nấp vào một bụi si dại, tôi chỉ cho Hiệp một con cò trắng đang lom khom bắt mồi dưới một dòng nước cạn. Chúng tôi nín thở, lách gần đến chỗ con cò, để xem nó bắt mồi. Không phải cò mà là con hạc, hai cái chân cao lêu khêu và cái cổ dài ngoẳng.
Nó không hề biết, có hai anh chàng đang theo dõi, ngắm nhìn dung nhan của nó, rõ ràng hai cái chân của nó run lên bần bật trong nước. Tôi lại trách ngầm nó: “Anh chàng hay cô nàng, ra đây kiếm ăn sớm làm gì cho lạnh ?” Nhưng tôi chợt nhận ra, không phải‟ nó run. Mỗi lần cái chân phải run bần bật, cái mỏ vàng nhọn hoắt, dài đến hai ngón tay lại chộp lấy, chộp để trên mặt nước. Thì ra cái chân phải của nó giậm xuống bùn cát, để xục những con mồi chạy tóe lên mặt nước, cho cái mỏ nó chộp.
Tôi chợt nhớ, ngày tôi còn 7- 8 tuổi, có lần đi học về trên con đường làng, dọc theo con sông đào, đầy bèo bồng. Tôi đã mải mê theo ông đánh giậm hàng giờ, chân của ông cũng giậm giậm cái càng tre như con hạc bây giờ.
Hiệp ngửng lên nhìn tôi, đôi mắt lấp lánh trầm trồ:
- Lần đầu tiên em nhìn thấy!
-Ơ tù mất nhiều năm, nên tôi cũng là lần đầu!
Hiệp nói, chỉ hơn 100 mét nữa là ra sông Đồng Nai, vì đây là cửa của con rạch. Trên đường đi, có lẽ hình ảnh con hạc vẫn còn chen chúc trong óc của Hiệp, nên quay sang hỏi tôi:
- Có phải hạc làm chân nến, ở đền thờ phải không anh?
- Đúng! Vì chân dài, cổ cao, hơn nữa dáng của hạc sang và đài các hơn là cò.
Con sông Đồng Nai đã nằm ngửa, phơi mình phía trước mặt, làn gió hè vẫn nhè nhẹ phe phẩy lá cành. Dòng sông rộng, nhìn bờ bên kia hãy còn mờ mờ trong sương sớm, tôi chỉ mặt nước chỗ gần bờ, phía đầu gió hỏi Hiệp:
- Hiệp nhìn mặt nước chỗ này, hình dung và cảm tưởng ra sao?
- Như một tấm gương để ngửa , đến nỗi chỉ nhìn mặt nước, em thấy hai con cuốc đen, đang dài cổ đuổi nhau sang bên kia bờ.
Thấy cảm xúc của Hiệp có dồi dào, tôi chỉ tay ra phía gần giữa sông, đầu làn gió mới tạt đến mặt sông, hỏi tiếp:
- Còn chỗ kia?
Nét mặt đăm đăm rồi sáng hẳn ra, nhìn tôi:
- Em thấy nó hơi nhăn nhăn như da trái bưởi, đến mùa thu hoạch.
Vồ vập chỉ mặt nước sát phía bờ bên kia cuối gió, tôi hỏi tiếp:
- Chỗ kia Hiệp hình dung giống cái gì?
Không do dự, Hiệp vừa cười vừa nói, nghe như đậu sào giá:
- Theo em, trông nó như chiếc bánh tráng (đa), nướng già than.
Tuyệt vời! Tôi quên béng, nên vỗ tay đôm đốp. Vừa đúng lúc một chiếc thuyền từ đầu nguồn đi sát ngay gần bờ. Trên thuyền, phía đầu mũi có một ông cụ già và một cô gái, tường tôi vỗ tay gọi vào, hay trêu cô gái đẹp? Ông cụ giơ tay khoắng lên như hỏi, làm cho cả tôi và Hiệp đều giơ tay lắc lia lịa, rồi quay lại nhìn nhau cười, như ngỗng hét gọi sao.
Thấy cảm giác phong phú sinh động khác thường của Hiệp, một nhà khoa học rõ ràng, tôi đâm ra băn khoăn suy nghĩ nghề nghiệp có thể khác nhau do cuộc sống, nhưng tâm hồn có thể “cùng ngồi một chỗ, cùng đi một chiều”. Tò mò, tôi thử đi sâu hơn tí nữa, tôi quay lại Hiệp thành thật:
- Tôi thừa nhận óc tường tượng của Hiệp thật là phong phú, có khi nào Hiệp hình dung ngay chỗ Hiệp và tôi, đang đứng. Trước đây, hàng trăm, hàng nghìn năm xưa đã có nhiều người đặt chân đến, qua lại? Của nhiều thời đại, nhiều thế hệ? Từ đấy suy ra: có khi ở giữa rừng sâu, hẻo lánh hay ở giữa thành phố tráng lệ, do những biến thiên, loài người xã hội, chuyển đổi có khi lại là ngược lại với nhau, tang thương vũng thành đồi?
Thấy tôi lan man đi vào những lãnh vực không cần thiết, nên Hiệp đã kéo tay tôi quay về. Mặt trời đã cao hơn một con sào!
Chuyến đến thăm nhà cậu Hiệp, chỉ ngủ có một đêm, nhưng đã làm cho lòng tôi ghi nhớ mãi. Chuyến đi đã làm cho tôi và cậu hiểu thêm nhau, và tin tướng nhau hơn.
Đã từ hàng tuần lễ trước, sắp sửa đến ngày kỷ niệm 100 ngày của thầy tôi, do chủ trương ấp ủ trong lòng, mỗi khi hai mẹ con ngồi bên nhau trong bóng đêm. Từ ngày thầy tôi chết, mẹ tôi gầy hẳn đi, người ít nói hẳn. Sáng tối người ở lại ngoài nhà thờ lâu hơn. Trước đây là hai ông bà chậm chạp lầm lũi, dẫn nhau đi nhà thờ. Buổi lễ sáng sớm cũng như buổi chầu chiều muộn, bây giờ có khi do tôi, do Hoa, có khi bà Chức. Cũng có ngày do một vài cô gái trẻ 16-17 trong ca đoàn dẫn mẹ tôi đi, hoặc dẫn về.
Để phần nào thể hiện bổn phận làm con của tôi đối với thầy tôi, và an ủi mẹ tôi phần nào, tôi sẽ xây mộ cho thầy tôi, trong dịp tròn 100 ngày.Mẹ tôi rất vui, một buổi người dúi vào tay tôi cái nhẫn hai chỉ, tôi bán được gần 100 đồng, cô Tuất góp 60 đồng, cô Thu 45 đồng, đặc biệt cháu Thanh Lan cũng góp 10 đồng để xây mộ cho ông.
Tôi và cậu Quang (cháu của Hoàng Ngọc Chính) đã đi mua gạch, cát và ciment. Tôi và Quang chẳng biết gì về thợ nề, nhưng đã có anh Tuấn Nguyệt, anh đã làm thợ nề và làm đội trưởng xây dựng nhiều năm, ở trong tù. Tuấn Nguyệt và Quang đã nồng nhiệt tích cực cùng với tôi, cuối tuần này sẽ xây mộ cho thầy tôi.
Chỉ hai ngày, thứ Bẩy và Chủ Nhật, ba chúng tôi đã xây xong ngôi mộ của thầy tôi, tương đối là hoàn hảo, so với những ngôi mộ khác chung quanh. Mẹ tôi muốn ra tận nơi, để người được sờ tận tay, ngôi mộ mới của thầy tôi, tôi đã làm vừa lòng người.
Một điều cũng thật là kỳ diệu! Cây mai, từ ngày anh Tuấn Nguyệt cho, Tuấn Nguyệt đã nói:
- Từ khi anh đi tù về, đã có cây mai này ở nhà, đã mấy năm rồi, chẳng bao giờ có hoa.
Nhà ông cụ của anh, có nhiều loại cây cảnh. Tôi đã đèo chậu mai từ trên Hạnh Thông Tây về, và nó là cây duy nhất trong ngôi nhà khô cằn nhựa sống, của thầy mẹ tôi. Cũng đã hơn một năm, tôi thay chậu, bón phân chăm sóc, mỗi ngày mỗi tốt tươi, nhưng cũng chẳng có hoa bao giờ. Đã có một lần nó ra một chiếc nụ, rồi rụng đi.
Tháng ngày trôi, cháu Mai Lynh ra đời, thầy tôi giã biệt cuộc đời. Hôm nay sau khi xây mộ cho thầy tôi 100 ngày, một buổi sáng, cây mai nở ra một chiếc hoa to đỏ chót. Tôi mới biết nó là loại Mai Tứ Quý .
Cây mai đã “xấn” vào đời tôi nhiều dấu mốc, tôi đã đứng cạnh cây mai này, để buổi đầu nối duyên đời với em Hoa, vợ tôi và cũng cây mai này, đã có tên Mai Lynh con gái cưng của tôi Bây giờ lại nở một bông hoa đỏ chót như chào đón tôi, như tươi cười hân hoan run rẩy trong làn gió nhẹ, mỗi khi tôi đến gần.
Một buổi sáng chủ Nhật, tôi đã bế con gái tôi xuống đến sát bà “Mai bốn quý”. Tôi đã cho phép tôi ghé mũi đặt chiếc hôn đầu, lên cánh hoa đang thì mới lớn, có một mùi hương ngầy ngậy, làm rạo rực lòng tôi. Và tôi cũng đưa dần chiếc bàn tay thiên thần nhỏ xíu, của Mai Lynh sờ nhẹ vào cánh “bích mai” đang hơ hớ trong nắng sớm, của một ngày.
Vào một ngày thứ Bẩy, sắp hết giờ Lao Động Xã Hội Chủ Nghĩa, tôi và mấy bạn thuộc phe chiến bại đang cắm cúi quét rác và móc lỗ cống, trước chợ Nam Hòa. Bỗng có tiếng Honda từ ngoài Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa đường Bắc Hải đi vào. Một anh chàng đang ngơ ngác thăm hỏi mấy người đi đường, tôi có nhìn lầm không? Rõ ràng là anh chàng Lê Hiệp, làm sao tôi có thể tin được, vì chẳng bao giờ, tôi nghĩ tới. Tôi đã chạy xô đến, để hỏi
- Hiệp vào đây để làm gì?
Hiệp nhìn thấy tôi, như tìm thấy một món đồ cậu đã đánh rơi, cậu vồ vập, dựng xe vội vàng rồi ôm chầm lấy tôi:
- Em đang . . . đi tìm anh? Em hỏi thăm đến ba, bốn người rồi !
Tôi cũng bấn loạn dồn dập:
- Có ngờ đâu Hiệp lại mò đến đây! Làm sao biết tôi ở khu vực này?
- Em hỏi bác Nhiên và phải đến Phạm Lộc mới biết, hoàn cảnh sống của anh, vì thế em quyết định một buổi phải đến thăm bà cụ và đứa con gái “rượu“của anh. Hơn nữa em phải gặp anh để lấy một món nợ…………
Tôi vẫn chưa nghĩ ra, tôi còn thiếu Hiệp món nợ gì…?.. thì Hiệp đã hạ giọng:
- Món nợ ân tình… ở cổng Bệnh Viện Tâm Thần..anh đã khất em… một bữa khác… ấy mà ?
Mắt trái của Hiệp hơi khép lại hai cái, tôi đã chợt hiểu và lòng thấy một niềm hân hoan nở rộ lên. Điều này đã nói rõ nỗi khắc khoải thực sự, của một anh chàng trí thức, với quê hương dân tộc.
Từ nãy, mấy anh cùng phe “chiến bại” và cả cô nàng Ngọc Anh trong phe “chiến thắng” cũng đang thô lố mắt, nhìn cảnh tôi và Hiệp gặp nhau. Chỉ còn nửa giờ nữa thì mãn giờ lao động, tôi đã dẫn Hiệp đến cô Ngọc Anh, vừa là giới thiệu, vừa là nhân chứng xin cho nghỉ vì có bạn ở xa tới bất ngờ. Hiệp và Ngọc Anh đã nhỏ to trao đổi, và chắc Ngọc Anh đã minh định được, một bác sĩ trẻ cùng phe với cô nàng, chứng cớ cô nàng đã giục tôi:
- Anh Bình hãy nghỉ tay, cũng sắp hết giờ rồi!
Tôi cảm ơn và chào mấy anh bạn của tôi, tôi dẫn Hiệp về trước. Hiệp đã ân cần thăm hỏi sức khỏe của mẹ tôi, con gái bốn tháng của tôi, Hiệp đã chuẩn bị từ trước, có một số thuốc cho mẹ tôi và con gái của tôi. Tôi đã bế con gái, để Hoa lo một bữa cơm giản dị, cho cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa tôi và Hiệp.
Tôi thấy Hoa đã chạy ra, chạy vào, ra chợ rồi sang cả nhà mẹ, ôm về một bó củi. Tôi chợt nhớ, củi đã hết từ hôm qua, Hoa tất tả ngược xuôi, nhưng bữa cơm cũng chỉ có hai món: Một đĩa tôm rang và một đĩa đậu rán. Qua thái độ và ánh mắt, Hiệp lại tỏ ra càng đồng cảm, trong cảnh sống của tôi. Hiệp đã chậm chạp, tâm sự:
- Em rất thương bà cụ ! Một mẹ già mù lòa vì đứa con trai ra đi biền biệt, gần hai chục năm. Nay trở về, nhưng cũng không nhìn thấy mặt con, lại mang bệnh lao phổi nặng, thương yêu cháu mà không dám bế cháu của mình!
Chiều hôm ấy Hoa đã bế con về bên mẹ, cho cháu chơi với bà ngoại. Tôi và Hiệp lên căn gác hẹp, cũng có một ấm trà với bao thuốc lá Hoa Mai.
Đã từ lâu, tôi đã xác định, càng thêm thời gian thì càng được thẩm thấu, như một phương châm hành xử:
“Cả cái tuổi thanh xuân của một đời người, tôi còn coi nhẹ, huống chi bây giờ bất kể một việc gì, nếu việc đó có góp phần lớn, nhỏ cho dân tộc tôi, cho quê hương tôi được tự do ấm no thực sự, thì tôi sẵn sàng kể cả mạng sống” .
Tôi chỉ ân hận một điều: Tài tôi hèn, trí tôi thiển, không đóng góp được bao nhiêu, trong phương châm hành xử của tôi. Hôm nay nằm bên Hiệp, một trí thức trẻ, một mầm non đang lớn của con “Hồng Tuộc”của thời đại, khắc khoải, băn khoăn về sự lầm than, quằn quại của người dân, dù tôi không đủ kiến thức quán triệt, thì cứ làm được đến đâu, hay đến đấy. Chả lẽ phải đợi cho đủ, cho chín mới làm? Tôi vẫn thấy thà còn thiếu vẫn hơn là không làm. Tôi cũng nói rõ cho Hiệp hiểu như vậy, còn nguy hiểm thực sự tôi không hề nghĩ đến.
Cứ cho là Hiệp sẽ báo cáo, đầy đủ tư tưởng của tôi với lãnh đạo của Hiệp, thì tôi vẫn cứ làm. Hai điều xấu là bị bắt vào ngục tù trở lại, điều này tôi đã làm đơn xin trở lại rồi. Điều thứ hai là bị bắn chết, hay giết chết. Ngay từ 1962 khi tôi xông vào bức màn sắt, tôi đã xác quyết chết đối với tôi là “hòa”vì tôi có biết cái quái gì nữa đâu. Điều mà Hiệp băn khoăn nhiều đêm ngày là tại sao chế độ cộng sản bị toàn dân (đa số) chán ghét đả phá, mà nó vẫn tồn tại, hết năm này lại đến năm khác?
Để nói về vấn đề nóng hổi, lớn lao này phải nói nhiều, diễn giải nhiều, hay viết hàng vài trăm trang giấy mới lý giải, minh chứng được cốt lõi. Vậy tôi chỉ đưa ra một vài nét cơ bản, rồi chính cái đầu của Hiệp, sẽ dần dần “đục đẽo” hết nó ra.
Từ cái mâu thuẫn nội tại là tâm lý và tư tưởng của con người, càng no đủ càng tự do dân chủ, thì mâu thuẫn này càng hằn rõ. Mâu thuẫn nội tại, là đã nằm sẵn, như một chất hữu cơ, có tự do, dân quyền thì phải có cái đó:
- Tính đố kỵ tự nhiên của con người.
- Cái tôi to lớn, ai cũng tự cho mình là một trung tâm, “mục hạ vô nhân”.
- Thờ ơ, không quan tâm những nguyên nhân xa, mà chỉ chú ý những điều sát sườn, trực tiếp: Hết gạo thì ra sức chạy gạo, mà không chịu tìm hiểu nguyên nhân vì đâu:
- Có gạo ăn no đủ.
- Cùng cực, lầm than, đói khổ.
Riêng ở Việt Nam của chúng ta hiện nay (1982) ở trong nước: Một số ít người do đặc quyền, đặc lợi thì không kể, hầu hết mọi tầng lớp người dân, đều phải sống trong cảnh lầm than đói khổ, khẩu súng và nhà tù đã khóa miệng, bịt mắt mọi người dân. Họ đều mong muốn đổi thay cái chế độ tàn bạo, vô nhân tính này.
Ở ngoài nước (Việt Kiều), những người đã di tản, vượt biên chạy trốn cái chế độ phi nhơn, vô thần này. Đương nhiên họ muốn lật đổ, thay đổi cái chế độ hiện hành. Dù cho cộng sản là con “kỳ nhông” luôn đổi mầu, đổi sắc để tồn tại. Như vậy cái câu dậy bảo của tổ tiên, ông cha từ ngàn xưa: ý dân là ý trời, đã không đúng nữa hay sao?
Tôi xin tạm thời dùng hình tượng, giả dụ như sau: Tất cả những người dân Việt đều quần tụ sinh sống trong một cái khu hẻo lánh, chung quanh có núi cao, hào sâu, chỉ có một hướng cửa mở duy nhất, để mọi người ra vào, sinh hoạt, một hòn đá to lớn như một chướng ngại chặn ngang lối ra vào. Mọi người trong khu, bất kể thành phần nào, ra vào đều phải vất vả, cực nhọc trèo qua hòn đá này. Lúc đầu vì chưa hiểu rõ, hoặc vì những quyền lợi cá nhân nên những người lãnh đạo trong khu, ra sức lắt léo thuyết phục mọi người: Hòn đá to lớn chắn ngang càng làm cho khu ở chúng ta thêm đẹp, thêm hùng tráng. Không những che chắn, gió độc, gió chướng mà còn ngăn cản cướp trộm, giữ gìn an ninh, cho mọi người trong khu v.v . . .
Nhưng cũng đã từ lâu, trải qua thực tế, hầu hết mọi người trong khu, đều thấy hòn đá bất tiện, gây nhiều trở ngại cho cuộc sống, nhất là với giới gánh gồng, kéo xe. Ngay cả một số người lãnh đạo trong khu, cũng đã thấy những trở ngại của hòn đá. Mọi người đều muốn lật hòn đá ra chỗ khác. Cũng đã có một số người, một số đoàn này, đội kia định xô đẩy hòn đá xuống hồ, xuống biển. Nhưng hòn đá to quá, không thể làm gì được.
Đã qua và hiện nay, là như thế. Muốn nhấc hòn đá, xô đẩy lật nhào nó xuống biển, thì tất cả mọi người dân trong khu đều phải ra mó tay vào hòn đá. Chưa hết, khi đã hô hào được mọi người trong khu ra cùng mó tay vào hòn đá, nhưng không cùng một lúc; khi người này nhấc, thì người kia không, hay ngược lại thì hòn đá ấy vẫn nằm đấy. Phải có một người, một tổ chức có uy tín, có thực lòng (đa số chỉ có ở miệng, không phải ở tim) mọi người trong khu đã thấy, đã tin tướng. Người đó, tổ chức đó yêu cầu mọi người trong khu ra đều mó tay vào hòn đá, rồi hô một hiệu lệnh thống nhất: Một, hai, ba: Mọi người đều hất, đều xô thì hòn đá sẽ lăn xuống biển, xuống hồ.
Hòn đá ấy là chủ nghĩa cộng sản, là cái bộ chính trị, là những tên lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam hiện nay.
Hiệp đã đứng hẳn lên, đến ôm lấy cổ tôi, hổn hển:
- Em cảm ơn anh!
Khi ấy đã 10 giờ! Đêm hôm đó, mẹ con Hoa ở bên bà ngoại, Hiệp vẫn không muốn nằm chiếc giường duy nhất, anh chị Hiền cho mượn trong dịp cưới. Hiệp thích tôi trải chiếu xuống sàn gác, để cùng thường thức cảnh đời của giai cấp vô sản. Trước khi ngủ Hiệp còn thì thầm như nói với chính mình:
- Chuyến đi đáng đồng tiền bát gạo!
Hơn một tuần sau, vợ chồng Lộc+ Liên xuống chơi. Lộc cho biết, qua sự giới thiệu của Nguyễn Hữu Lợi, biết là tôi muốn “oversea”. Hiện nay, Phạm Lộc kết hợp với một vài người nữa, bí mật tổ chức một chuyến đi cho chính mình. Lộc đã biết điều kiện, hoàn cảnh nghẹt thở của tôi, chỉ riêng một mình tôi, nếu đồng ý đi thì chuẩn bị. Nếu đắm tàu, hay cướp biển chết cả, thì có gì để nói, nếu thoát ra tới ngoại quốc phải thanh toán, cho vợ chồng Lộc + Liên ba cây vàng.
Nếu tôi chưa được tiếp xúc trước đây với Lộc+ Liên, đã hiểu lòng tự trọng và danh dự của nhau, và nếu không có sự giới thiệu của Lợi, chẳng bao giờ có sự thỏa hiệp với một điều kiện lý tưởng như thế ở giai đoạn ấy. Chẳng nói thì ai cũng biết là tôi đã gật đầu đồng ý, đến “sái” cả cổ. Hôm nay tâm tình bằng những bàn tay “xòe” nên tôi được biết Phạm Lộc, không phải là con trai của bác Nhiên. Do bối cảnh loạn ly của đất nước, Cao Xuân Huy là anh cùng mẹ khác cha với Phạm Lộc. Vì vậy, chuyến đi sẽ có cả Cao Xuân Huy, dự trù vào cuối năm 1982.

44. THĂM MỘ CỤ NGÔ LẦN HAI

Lộc sẽ liên lạc, báo trước cho tôi hàng tuần, để tôi chuẩn bị. Qua một số hiện tượng, tôi hiểu đây là chuyến đi thực sự chứ không như chuyến thứ hai, tôi mất công thấp thỏm một đêm trong bụi cây găng già. Vì đã đi hụt hai chuyến, nên tâm tư của tôi vẫn lặng lờ như đất trời, có thể nắng và cũng có thể mưa, nhất là thời gian ấy, chẳng phải chuyến đi nào cũng đến bờ.
Tuy vậy với Hoa, người vợ hiền thương yêu của tôi, do điều kiện ngặt nghèo tôi không thể đưa được vợ con đi, để nếu có làm mồi cho cá thì cũng vui lòng cùng nhau. Ngược lại, thành công thì cùng được thở hít bầu không khí tự do, đúng với kiếp sống của con người.
Đã phải nhiều đêm, nhiều lúc tâm tình, khích lệ, động viên, trang bị tư tưởng cứng rắn chịu đựng cho Hoa. Dù trong hoàn cảnh nào, cũng phải can trường đứng thẳng, bằng chính đôi chân của mình. Cũng do hoàn cảnh đẩy xô của dòng đời, và bối cảnh đau thương của dân tộc, đời tôi đã lăn lóc trong bãi rác và bùn lầy, nên tôi muốn con gái của tôi, cũng phải có ý chí nhẫn nại, chịu đựng những bão tố của cuộc đời. Từ những tâm ý này, những lần tôi chơi đùa với con gái 5 tháng tuổi, tôi đã tập dần, tung con tôi lên cao, rồi bắt lấy như một quả bóng. Mẹ nó nhìn thấy, đã nhiều lần hết hồn, kêu thét lên. Từ ăn, ngủ hay chơi bời đều với tâm ý rèn luyện của tôi. Thâm tâm tôi, mong muốn sau này con tôi, dù có được bọc trong nhung lụa, nếu cần nằm đất, bờ cát, cũng là chuyện bình thường.
Quan điểm của tôi vẫn muốn, ít nhất là những người thân của tôi : ”Là hạ sĩ hay sĩ quan nhưng phong cách, hành xử là người lính”. Tôi rất đả phá lối “người lính tính quan”.
Còn người mẹ khốn khổ mù loà, nhưng tôi càng kính yêu người hơn. Đã nhiều lúc, nhiều đêm tôi ngồi ôm mẹ tôi hàng giờ, có những lúc để dòng nước mắt rỉ chảy vào tim, nhưng cũng có nhiều lúc giàn cả ra mặt. Nhìn đôi mắt của người hoắm sâu vào, tôi đã thấy tôi bé nhỏ lại, như ngày còn thơ ấu. Tôi nhớ tôi đã có cảm giác: Ngôn ngữ trên thế gian này không còn, hay không có một từ nào đủ để nói được cái bao la, êm dịu, lồng lộng nhân từ thương yêu của đôi mắt người mẹ.
Nhưng bây giờ, người phải chịu đựng khổ đau biết chừng nào, không làm sao nhìn được con trai vì thương khóc nó nên bị mù. Qua ánh điện chiếu vào màn, nhìn mẹ tôi gục đầu thiểu não, một nỗi xót xa héo hắt từ trái tim bầm tím của tôi rỉ chảy ra, tôi đã ôm lấy cổ mẹ rên rỉ:
- Mẹ có biết con thương mẹ nhiều lắm không mẹ? Con thương mẹ hơn là thương đời con!
Người xoa đầu tôi như ngày tôi còn bé, nhưng người không nói một lời. Tôi đã thong thả thưa với người chi tiết buổi nói chuyện với Phạm Lộc.
Người nghe tôi trình bày chuyến đi sắp tới với Phạm Lộc, người đã nói với tôi những lời mà tới nay và cho tới khi tôi lìa đời tôi vẫn không quên:
“Mẹ mù loà, cô đơn,cần con lắm! Vợ dại, con thơ của con cần con lắm! Nhưng con phải đi, ở dưới nhà nước này, con chỉ là con trâu, con ngựa.”
Con xin kính vâng theo lời mẹ! Con rất tự hào, trong huyết quản của mẹ có truyền thống trinh liệt của bà Trưng, bà Triệu. Con quỳ xuống kính cẩn lạy mẹ!
Đã từ lâu, từ cái ngày tôi đến kính viếng thăm mộ Cụ Ngô và ông Nhu ở nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi đã hơn một năm rồi, tôi đã có ý định khi có thời gian tôi sẽ đến thăm các người một lần nữa. Nhưng con Hồng Tuộc nó quần thảo tôi như chong chóng, chả còn thời gian nào. Kỳ này lỗ mũi của tôi đã được tháo ra một bên, mỗi tuần trình diện có một lần nên cuộc sống đã thong dong, thoải mái đôi phần .
Tối khuya hôm qua, đạp xe từ ga (xe lửa Biên Hoà đi Sàigòn) về tới nhà, em Hoa vẫn chờ tôi ở cửa như mọi khi . Hoa nói ngay:
- Thứ tư, anh Tuấn Nguyệt dẫn một anh là Mạc Lịch lại thăm anh. Có chào mẹ và bế Mai Lynh.
Thật là vui. Mạc Lịch là dân sport, dân “thổ công” của Hà Nội, cũng đã được ra chiếc lồng to, bây giờ lại ở Sàigon nữa. Tôi định hôm nào có thời gian, sẽ lại thăm anh. Tôi và Lịch có nhiều kỷ niệm ở trong tù. Nhưng, ngày mai thứ bẩy không lao động XHCN, tôi đã có chủ trương sẽ lên nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi viếng Cụ Ngô.
Lần này, tôi muốn mang cả vợ lẫn con gái của tôi đến chào và thăm viếng hai vị. Tôi đã dặn Hoa: Chúng ta không có điều kiện, vậy chỉ cần mua hai cái hoa hồng, hai cây nến và hai cây nhang là đủ rồi. Các vị cần tấm lòng chứ đâu cần lễ vật?
Đã chuẩn bị từ hôm trước, sáng thứ bẩy, với “ông” bạn già thủy chung, mẹ con Hoa ngồi ở yên sau, hướng về nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, tôi “giấn” bàn đạp. Trên đường đi nghe con gái í óe phía sau với mẹ nó, tôi có cảm tưởng, dù tôi là kẻ chiến bại, không còn một cuộc sống bình thường như mọi người; tôi vẫn gồng gánh bảo bọc được cho vợ con tôi, một gia đình nhỏ bé trong cuộc đời này.
Trời hôm nay hơi đùng đục mầu sữa đặc, cổng nghĩa trang còn mờ mờ trong sương sớm. Sau khi gửi xe, tôi ôm con gái, Hoa ôm nhang, nến và mấy cánh hoa hồng còn trong bọc giấy. Một đàn sáo đá năm, sáu con đang ríu rít trên cổng, đều cúi xuống hót toen toét như một điệu kèn mở màn cho ngày hội, khi chúng tôi bước vào. Nhìn những ngôi mộ to, nhỏ xây cao thấp mập mờ trong làn sương mỏng, tôi nhớ đến một ý thơ:
….Ở đây sương khói mờ …. nhân ảnh……
Lòng tôi cũng nao nao về kiếp nhân sinh, trong cõi thế tình. Mặt trời đã thức dậy, những ngọn cây vàng ửng lung linh, lắc lư, cả khu nghĩa trang như được lọc hết những sương mờ. Hơn hai chục con sếu cổ dài, từ hướng Đông bay đến ngọn cây thông đầu đàn, kêu quàng quác, như đội quân cảnh đang điều hành giữ an ninh trật tự, cho ngày hội. Trời cũng trong xanh hẳn lại. Phía Tây Nam từng đống mây trắng, đang đùn lên như một đám cháy rừng.
Đã có ý niệm từ lần trước, tôi dẫn vợ con tôi ngoằn ngoèo tiến về phía hai ngôi mộ. Khí hậu êm ả trong làn gió nhẹ, đột nhiên ồn ào như tiếng thác chảy đầu ghềnh, một đàn cò trắng đến hơn ba chục con, tranh nhau đậu xuống hai cây muỗm già, ở phía đầu hai ngôi mộ. Chẳng biết chúng bàn tán gì mà cứ kêu: Cò… Cò… cò… inh ỏi. Cây muồng đã đội cái xuân nửa chừng, phía bên trái cũng có đám con chèo bẻo ở đâu mới mò đến. Cái loại chèo bẻo này, lúc nào cũng ra vẻ chính nhân, trông mặt thì mô phạm, nghiêm trang nhưng trong lòng, thì chứa nhiều uế khí.
Trong khi Hoa đang cắm bông, đốt nến, thắp nhang ở hai ngôi mộ, tôi đặt con gái của tôi lên chiếc nắp bằng, ngôi mộ cụ Ngô, để mặc cho nó lân la, bò trên ấy. Tôi đi vặt những nhánh cỏ may, mọc trườm ra, hết mộ cụ Ngô lại sang mồ ông cố vấn. Tôi ôm con gái của tôi, đứng bên cạnh vợ, bắt đầu làm dấu thánh giá, nguyện kinh, theo thủ tục tôn giáo.
Thật là lạ kỳ, một đàn năm con bồ câu từ mãi phía mặt trời mọc, sà đến cây bằng lăng, ngay đầu ngôi mộ. Chúng rúc mỏ vào cánh của nhau, rồi cùng nhìn xuống chúng tôi, đầu chúng cứ gật gù , miệng kêu : hù hù . . . . .lù . . . . . . hì, nghe như nốt nhạc mở đầu của một bài ca “Tôi yêu “:
Tôi yêu…..quê tôi…..yêu mãi…bây giờ càng yêu.
Yêu chim bay qua…mang đến tin mừng thái hòa.
Yêu anh, yêu em, yêu nước, yêu trời gần xa
Và yêu mối tình nở hoa….ngàn năm không hề phai nhòa
Chẳng hiểu từ một nguồn cảm thầm kín nào, tôi nghe chim câu gù, lại ra bài ca của Trịnh Hưng, từ ngày còn cụ Ngô. Rồi óc tôi nhớ, mắt tôi nhìn rành rọt một buổi cụ Ngô và đoàn tùy tùng, đến đặt vòng hoa trước đài chiến sĩ trận vong năm 1956. Tôi nhớ nguyên văn lời cụ Ngô:
“Chúng ta thành kính, nghiêng mình trước anh linh các chiến sĩ quân dân chính, đã bỏ mình vì chính nghĩa, để kiện toàn cuộc cách mạng giải phóng con người.
Ngô Đình Diệm”
Hôm nay tôi cũng thành kính, nghiêng mình trước anh linh của cụ và ông cố vấn. Tôi là người có tội với dân tộc, xin cụ và dân tộc tha tội! Nếu rồi đây tôi có chui vào lòng biển cả, xin cụ và ông cố vấn để một con mắt, đến vợ con và người mẹ mù lòa, của tôi.
Hoa quay lại tôi, giọng đẩy thắc mắc:
- Sao ở đây, có nhiều chim thế hở anh?
Tôi định nói: “Anh cũng thấy lạ !” nhưng tôi lại nói như giải thích:
- Trong nghĩa địa nhiều cây, lại yên vắng nên chim thường hay đến nghỉ ngơi, chuyện trò.
Hai con bướm trắng xanh, như hai bông hoa nhài thời con gái, từ đám cỏ úa vàng phía sau mấy ngôi mộ lớn, bay đến. Chúng khỏa cánh dập dờn quanh chúng tôi, rồi một con đậu vào cái lẵng đựng đồ của mẹ con Hoa, đang để dựa vào thành mộ cụ Ngô. Một con khỏa một vòng nữa, rồi đậu ngay vào đầu bé Mai Lynh. Đôi cánh thong thả mở ra, khép vào như một bàn tay vỗ về con gái tôi. Nhìn Hoa đang mở to mắt, ngắm con bướm trên đầu Mai Lynh, lòng tôi bỗng co lại lượn lờ vào cõi siêu hình.
Tôi ôm Mai Lynh, không dám cả thở mạnh, vì con bướm chỉ cách mặt tôi, chừng hơn gang tay. Tôi nhìn rõ hai chấm vàng và đỏ cạch, hai bên cánh, một mùi hương hoa thiên lý vung lên rắc đều, trộn lẫn với khói nhang, thành một cái hương vừa thần bí, vừa man mác thanh cao. Con Lynh hình như cũng cảm nhận, thấy có cái gì ở trên đầu, nó rút bàn tay bé xíu ở túi áo ngực của tôi, ngọ ngoạy giơ tay lên đầu. Tôi muốn bảo con tôi, bỏ tay xuống, nhưng mãi cũng không thể phát ra lời. Hai con bướm đã như hẹn, cùng bay lên, theo nhau đảo một vòng về phía chúng tôi, rồi cùng bay trở về đám cỏ vàng, phía mấy ngôi mộ lớn, như những chiếc đền, chiếc miếu con.
Mặt trời đã lên gần đỉnh đầu, một tay bế con, một tay kéo sát Hoa lại và hướng vào hai ngôi mộ, đều cúi đầu nói to:
- Chúng tôi kính chào hai vị!
Hoa đã nhắc từ lúc đi, khi về phải ghé vào nhà ông Cả Nhưỡng mua thuốc đánh răng, vì đã hết hai ngày rồi. Loại thuốc ông tự pha chế, giữa xà phòng và vôi bột, cứ hai đồng một lọ sành con.
Từ ngày tôi về, cũng chả quen biết gì chuyện đánh răng, vì đã quên béng từ dạo trong tù. Nhưng từ ngày đón Hoa về, cô nàng bắt ra nhà ông Cả Nhưỡng, mua loại thuốc vôi với xà phòng phát minh trong nhân dân này. Tôi phải ngoan ngoãn chấp hành sự điều hành của “nội tướng”. Nàng còn khoe, chiều nay sang bà Cần lấy hai kí mì vụn xuất khẩu, nàng đã mánh mung móc ngoặc từ hàng tuần lễ trước. Tôi chỉ nghe, thực tế tôi chưa được thưởng thức cái món mì xuất khẩu, nó ra làm sao. Thế mà chiều nay tôi sẽ được đã đầy … mà ngây ngất, dù là vụn vẫn còn hơn là không biết gì.
Chưa có ăn, nhưng viễn tưởng đã như một ngọn “thu phong” cuối hè ùa vào lòng. Mới tới cửa nhà, Hoa đã nhẩy xuống đưa con cho tôi, rồi nàng ghé sang nhà bà Cần ngay. Tôi ôm con vào trước đưa cho bà, rồi ra dắt “ông” bạn đứng dựa tường từ nãy đi vào.
Chỉ thoáng nghe tiếng ọ ẹ của cháu, mẹ tôi đã vén màn, mặt người tươi roi rói, người vội vàng lấy chiếc khẩu trang đeo vào. Đã từ hơn một tháng trước, Hoa phải đạp xe sang bệnh viện Hồng Bàng, để hỏi bác sĩ chuyên môn: “Mẹ tôi bị bệnh lao phổi, người quá thèm khát bế cháu, có cách gì giải quyết được, không bị lây nhiễm cho cháu?” . Ông bác sĩ chuyên môn, dặn chỉ cần rất đơn giản: “Trước khi bế cháu phải rửa tay xà bông, và đeo khẩu trang! Tuy vậy cố gắng hạn chế “bế cháu”.
Từ dạo ấy, mẹ tôi đã giải quyết nỗi bức xúc của người, mặt của mẹ tôi có sinh khí hẳn lên. Hoa cũng rất băn khoăn về vấn đề này, nhưng tôi khích lệ và xoa dịu:
- Em thông cảm với mẹ, người chả còn sống được bao lâu nữa!
Thậm chí, tôi đã nói thầm cả với con gái của tôi:
“Con chịu khó làm vui lòng bà, Chúa sẽ ân thưởng cho con sau này”.
Khi tôi đã dựa “ông” bạn vàng vào phía trong cửa sổ, quay lại, thì một tay người bế cháu, một tay người móc túi đưa cho tôi một lá thư, ngoại quốc. Lá thư từ Cali (Mỹ), do một bà bạn của mẹ tôi, tên là Lưu.
Đọc lá thư giản dị vài dòng, nhưng đã làm cho lòng tôi bồi hồi xúc động. Như vậy tình người, tình quê hương hãy còn thấm đượm như thế ư? Một bà vợ của một ông trung tá, di tản từ 1975. Bà này là khách hàng quen biết của mẹ tôi, từ ngày mắt của mẹ tôi còn sáng, bán hàng tấm ở chợ Nam Hòa, rồi cho tới khi mẹ tôi bị lòa, vì nhiều đêm ngày khóc thương đứa con trai cả đi… đi mãi không về với mẹ.
Người bạn đó, vẫn một lòng, đến từng nhà thương thăm hỏi, cho tới khi mẹ tôi bị mù hẳn ở nhà. Bà ấy đã nhờ chồng, lái xe đến nhà để thăm hỏi, giúp đỡ mẹ tôi, những tháng năm còn dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Bây giờ nơi xứ người, hẳn sau những tháng năm ngơ ngác tảo tần đã tạm thời ổn định, bà vẫn chưa quên người bạn lòa ở quê nhà. Bà ấy gửi về một chút quà, để nói lên phần nào tấm lòng của bà ấy với người bạn bất hạnh này. Chừng nửa tháng sau, có giấy báo từ Cục Hải Quan Tân Sơn Nhất, để mẹ tôi ra lãnh đồ. Lần đầu tiên từ ngày đất nước sang trang, mẹ tôi có quà ở ngoại quốc gửi về.
Trước ngày tôi đi nhận quà, nhà hết gạo, củi, con không có tiền mua sữa hộp. Cứ mỗi tuần con tôi uống một hộp sữa đặc “Ông Thọ” để bồi dưỡng, theo yêu cầu của chuyên môn. Con gái tôi bị suy dinh dưỡng cấp 2.
Bấn quá! Tôi đã lục lọi nhiều thứ, cái gì có thể đổi thành gạo, thành củi ở trong nhà. Hoa đã phải nhặt nhạnh dần, đưa ra chợ trời Tân Bình, từ cái búa, cái kìm, vài cái bát, cái nồi, phích nước. Hôm nay còn cái áo “veste” của thầy tôi, người đã cho tôi khi còn sinh thời, như một gửi gấm cho đứa con trai, còn lại trên cõi đời.
Chính vì tôi thấu hiểu ý nghĩa tấm lòng của người, nên dù tôi thiếu đói, cũng quyết giữ lại như một di vật của tình phụ tử. Nhưng giờ đây, con gái tôi thiếu thuốc, không sữa trong suy nhược, tôi làm sao duy trì được sự quyết tâm trước đây? Đã mấy đêm trăn trở giằng co với chiếc áo, tôi chưa mặc một lần, để rồi sáng hôm nay, tôi phải đưa cho Hoa, ra chợ Tân Bình.
Hai bố con ôm nhau, với căn nhà rỗng không còn gì để bán và hai cái bụng cũng rỗng, như căn nhà. Phải nói là ba cái, hẳn người mẹ lòa của tôi, cũng chẳng khác gì bố con tôi, và cả người mang chiếc áo đi! Tôi thương Hoa quá! Vì đẻ con nên đã bỏ việc, vì người mẹ mù lòa, bệnh tật và vì anh chồng không có tài xoay xở. Anh chồng đó lại bị con Hồng Tuộc quấn chặt trong vòi của nó, nên cũng đã buộc chặt cả đời Hoa.
Khoảng quá trưa, mãi gần 2 giờ Hoa mới về. Tâm trạng của tôi ngồi ôm con chờ Hoa, nỗi khắc khoải chờ mong thấp thỏm, như ngày tôi còn bé nơi quê nhà, ngoài miền Bắc mong mẹ của tôi về chợ. Thoáng một tiếng động cửa, một bóng người thoáng qua, cánh cửa sổ dưới nhà, một nguồn nóng ấm lại trào ra trong cõi lòng heo hút vắng lạnh. Đời trai ngang dọc, để rồi giờ đây ngồi ôm con bất lực, than vãn ư? Nỗi niềm vơi đầy cứ gậm nhấm đay nghiến, dằn vặt, vò xé trái tim đã rỉ máu, của tôi.
Một chiếc áo vét, thầy tôi mới mặc một lần, Hoa mang đi, chiều Hoa mang về 1 kí 5 gạo, và một hộp sữa Ông Thọ, không còn đủ tiền mua thuốc an thần cho mẹ. Dù gì cũng cảm ơn Hoa, một cô nữ sinh lớp 11, bây giờ phải ngắc ngoải đứng ở chợ trời. Càng ghi nhớ công ơn những tay chân của ông già không vợ, nhưng nhiều con rơi, đã vào “giải phóng” cho đồng bào ruột thịt miền Nam, đói khổ.
Trưa hôm nay, tôi từ bên khu Thanh Đa chỗ vợ chồng Lợi, đạp xe về, thấy một chiếc xe đạp lạ dựng bên ngoài cửa. Vào nhà tôi còn nghi ngờ cả mắt tôi. Lầu Chí Chăn to lớn (người nhái) đang ôm đứa con gái sáu tháng của tôi. Như thế Chăn đã được về do áp lực của Quốc Tế. Gia đình Chăn, đã bồi dưỡng u hề cho Chăn, bên Chợ Lớn gần hai tháng rồi, mặt của Chăn hây hây hưng phấn như con hổ, vừa thoát ra khỏi chuồng.
Chăn chỉ còn mẹ và các anh ở cây da sà Chợ Lớn. Một điều hơi đặc biệt, Chăn ghé tai tôi nói nhỏ: “Chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã trả tiền tử tuất, nhưng gia đình Chăn do khá giả nên còn giữ nguyên vẹn cho tới ngày bất chợt, Chăn được trở về”. Chăn rất thương cảm con gái nheo nhóc của tôi, và hẳn từ sớm, Chăn đã thăm hỏi mẹ tôi, Hoa và cũng đã nhìn rõ cảnh sống nhiều ngõ hẹp của tôi.
Hoa cũng thật tài ba đảm đang xoay xở, nàng đã chạy vạy ở đâu ra hai quả trứng vịt, để có một bữa trứng tráng già lửa, thơm phức cả nhà. Trong bữa cơm duy nhất, chào mừng người bạn tù mới xổ lồng. Ngoài trứng chỉ có món mắm tôm chưng cố hữu, món ăn phù hợp với bà đẻ ăn kiêng, mẹ tôi bệnh phổi, mù lòa cũng phải ăn kiêng và tôi lại cũng thích ăn kiêng trường kỳ.
Cảnh đời của tôi, đã nhiều đêm ngày đẩy đưa tâm tư của tôi trở về, cảnh đời của “chị Dậu”, bà phó Đoan, cô Loan, anh Vọi và cậu Điệp v. v … Chả trách gần đây, tướng Trần Độ, ông Phạm Quế Dương, Trần Dũng Tiến phản kháng bộ chính trị và trung ương đảng cộng sản đòi cho bằng được: Để người dân được sống , được hưởng như cảnh đời của người dân, dưới thời thực dân Pháp thuộc, cách đây gần một thế kỷ?
Chăn đã làm tôi ngạc nhiên, lúc ra về, Chăn đã rút túi lấy tiền, đút vào tay đứa con gái sáu tháng của tôi, một tờ giấy bạc to nhất mới ra, của nhà nước: 100 đồng. Để thấy giá trị của 100 đồng lúc ấy: Cái áo vét còn mới của thầy tôi, ra chợ Tân Bình chỉ được 17 đồng, đủ mua hộp sữa và lkg 5 gạo. Tôi đã dứt khoát từ chối, dù là tôi không có tiền, nhưng Chăn đã nói rõ ràng:
- Tôi không đưa tiền cho anh chị! Đây là tiền của một ông chú, cho đứa cháu gái! Anh chị không có quyền từ chối! Chỉ có nó, nhưng nó đang cầm, với đôi mắt long lanh vui mừng!
Nhìn tờ giấy 100 đồng con Mai Lynh đang mân mê cầm, tôi liên tưởng đến hình ảnh Lầu chí Chăn, chui vào kho vẹc-ni múc ra một ống bương veni, gần hai lít, ở trại trung ương số 1 Lào Cai. Và gần nhất, Chăn đã khênh cả một bao tải lạc (đậu phụng) trong kho, của trại Thanh phong, Thanh Hóa.
Ăn cướp chứ không cắp, trộm lèm nhèm! Hai hôm sau, tôi đi lĩnh được một hộp quà, của bà bạn mẹ tôi, ở Tân sơn Nhất, gồm hai chục mét vải “soa” đen may quần, hai chục mét vải popeline trắng để may sơ-mi, hai lọ thuốc lao phổi. Đặc biệt có một “tuýp” thuốc đánh răng Colgate, loại kem đánh răng quý báu, có thể chữa được chứng đau bụng “khan “, nghĩa là không phải đau bụng đi ngoài (lỏng).
Rất nhiều anh em, kể cả những anh chàng tu sĩ, chủng sinh, người dân tộc, khi bị đau bụng bất thường, trại không có thuốc, bấn quá đã lấy thuốc Colgate uống, mà lại khỏi. Và rồi sau đấy, cứ đau bụng nhiều người uống khỏi, để trở thành thuốc đau bụng thần diệu, ở trong tù.
Cho nên trong cuộc sống chuyện gì cũng chỉ có ý nghĩa tương đối. Người ta vẫn nói: “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí “, nhưng kỳ này, tự nhiên Lầu Chí Chăn mang đến cho 100 đồng, rồi người bạn của mẹ, từ mãi bên Mỹ lại gửi cho quà.
Tôi chạy ra nhìn bông hoa mai Tứ Quý đỏ chót, đang lắc lư, rung rinh với gió. Một ý tướng mơ hồ, lảng vảng vào tâm hồn tôi: “Có còn niềm vui, niềm may mắn nào nữa không? Xin thỉnh cầu!” Kỳ này, chúng tôi mua được một số thuốc cho mẹ, trước đây không đủ tiền mua, cháu Lynh cũng thế, sữa hộp được tăng cường lên hai hộp một tuần. Em Hoa và tôi cũng “bốc” với hương đời một tí, cho nên chúng tôi dám thưởng thức những con cá chiên nóng đòn, những quả cật, qủa tim, lòng heo còn tươi rói.
Bữa cơm, nhìn mẹ tôi ăn những miếng thịt kho tàu mà hằng năm, người không nghĩ đến, ruột tôi nở ra từng khúc. Trông nét mặt người hân hoan, lòng tôi mát dịu như được đón nhận làn gió sớm mùa xuân, dù rằng số tiền bán mấy chục mét vải cũng chả được bao nhiêu.
Vả lại, “tiền vào nhà khó, như gió vào nhà trống” nhưng trong cảnh mẹ, con và vợ như những cây rừng, lâu ngày nắng hạn, cằn cỗi, tại sao có chút nước, lại cất đi, để dành?
Chỉ hơn một tuần sau, tôi nhìn mẹ tôi, nhìn con, nhìn vợ tôi và ngay tôi đã có khí sắc như mọi người. Cảnh sống bươn chải cực khổ, lầm than thì gia đình nào cũng vón cục lai, kể cả anh em, ruột thịt, bạn bè, ai cũng phải tự lo để tồn tại.
Một buổi chiều tối vợ chồng Phạm Lộc đến báo cho tôi biết, chuyến đi sẽ vào ngày 26-11-1982. Đúng 2 giờ chiều sẽ đón tôi tại một địa điểm, trên đường Nguyễn Huỳnh Đức, Phú Nhuận. Chỉ còn hai ngày nữa để chuẩn bị. Theo yêu cầu của mẹ tôi, và cũng là ý định của tôi, ngày mai tôi sẽ dẫn mẹ tôi, vợ con tôi ra thăm mộ và đọc kinh, cho thầy tôi.
Hôm sau Hoa cũng phải lo mua một cây nến, ba nén nhang và một bông hoa hồng. Chẳng biết ý tưởng của tôi thế nào, tự nhiên tôi vào bếp lấy con dao ra, tôi chọn, tìm một cành mai đưa ra cho thầy tôi. Có thể khi ấy, tôi nghĩ tới những ngày người còn ở với mẹ con tôi, cả tới khi tôi đã cưới vợ. Tôi thường thấy thầy tôi đứng ngắm nghĩa cây mai thật lâu, sau mỗi lần người làm một điếu thuốc lào. Tôi đã chọn một cành mai, tôi ưng ý nhất, cắt mang ra mộ, gọi là thể hiện tình người con trai hẩm hiu, đối với phụ thân trước khi ra đi vào đại dương nhiều bão tố, và nhiều những sự việc không biết trước.
Hoa bế con, một tay tôi xách chiếc lẵng có cành mai, nến, nhang và một đóa hồng tươi duy nhất. Giống như thăm mộ cụ Ngô và ông cố vấn. Một tay tôi dắt người mẹ bất hạnh của tôi, chúng tôi bồng bế, dắt díu nhau lần mò ra nghĩa địa Nam Hòa. Mới có hơn ba tháng, từ ngày xây mộ, thế mà hôm nay, cỏ đã mọc um tùm. Tôi để mẹ tôi ngồi ghé trên mộ, tôi dọn sạch cỏ chung quanh, cả mấy ngôi mộ bên cạnh, hàng xóm của thầy tôi. Hoa vừa bế con, vừa thắp nhang đốt nến, mùi nhang lẫn vào cỏ tươi vừa mới vặt, tôi có cảm tưởng là mùi của thầy tôi, sau mỗi lần người hút thuốc lào.
Một điều cũng hơi một chút lạ, tôi thấy như có sự trùng hợp, khi chúng tôi râm ran đọc kinh, theo nghi thức tôn giáo. Một con bướm trắng có hai cái lông mào trên đầu, đỏ như cái mầu bông mai Tứ Quý ở nhà, con bướm cứ lượn lờ đến mấy vòng quanh ngôi mộ. Hai chiếc cánh trắng như đôi mắt con nai rừng, cứ nhắm vào rồi lại mở ra nhìn tôi trừng trừng. Tôi đã ôm lấy mẹ tôi, tay người lần hạt, miệng người vẫn mấp máy đọc kinh, nhưng hai dòng lệ lại giàn chảy ra, từ đôi mắt hoắm sâu của người.
Tim tôi như muốn ngừng lại, niềm xúc động cuồn cuộn tràn ứ, làm mờ cả mắt tôi. Tôi nói hết làm sao được lòng thương yêu, của tôi với người. Người sẽ phải vĩnh viễn, sống trong đêm tối ! Âm thanh càng đào, càng khoét, càng quấy, chọc trái tim quắt queo, như chiếc lá môn khô già, đang thối rữa của người. Mẹ ơi! Con thương mẹ lắm! Óc của tôi ngắc ngoải tiếng gọi đó, nhưng miệng của tôi không phát được ra thành lời.
Hôm nay, không những tôi kính chào, từ biệt thầy tôi nằm dưới mộ, tôi cũng kính chào từ biệt người mẹ mù lòa, tôi hiểu tôi ra đi trái tim của người càng tàn lụi, thối rữa thêm vì nhớ thương. Nhưng mẹ tôi đã thể hiện quyết tâm rồi, người còn đủ sáng suốt để phân định, giữa nghĩa nước và tình nhà.

45. RA KHƠI LẦN THỨ BA

Vì Hoa muốn đưa tới nơi, họ đón tôi ở Nguyễn Huỳnh Đức, nên từ hôm qua Hoa đã nói trước với mẹ Hoa giữ dùm cháu ngoại Mai Lynh. Hoa đã dẫn xe đạp ra ngoài cửa đứng chờ, mà tôi còn ôm mẹ tôi, chưa muốn rời tay. Tôi ngoái nhìn mọi đồ vật trong nhà một lần nữa, vừa bước ra tới cửa, lại nghe tiếng mẹ gọi giật lại:
- Bình, con ơi! Cho mẹ cắn con một cái!
Quay vào, mặt mẹ tôi tươi roi rói hấng mãi ra, nhưng mẹ có nhìn thấy tôi đâu? Mắt tôi đã mờ đi vì nước mắt lại dàn ra, tôi đã ôm chặt cổ mẹ, và áp má vào mặt mẹ. Mẹ đã ghì chặt tôi hơn và người cắn vào má tôi. Tôi đau nhưng lòng rủn ra, tim tôi như bị ép lại, người tôi như muốn xiêu đổ. Để rồi Hoa phải quay vào, cũng nước mắt dầm dề, kéo tay tôi đi ra. Đã ngồi lên xe đạp, tay tôi còn sờ má, chỗ mẹ vừa cắn, lòng tôi vẫn còn hổn hển chưa thở được bình thường.
Tôi đã đèo Hoa ra Ông Tạ, đến một tiệm vàng, chiếc nhẫn trơn duy nhất một chỉ vàng, đã từ lâu tôi vẫn cất ở trong bóp. Chiếc nhẫn này, từ một cây vàng do chị Hai Công cho, tôi còn cất giấu. Tôi phòng hờ, bị công an hay du kích bắt, đút cho nó mà chạy, từ chuyến vượt biên lần thứ hai không thành.
Tôi đã giữ chiếc nhẫn, như giữ bàn tay của tôi. Nhưng hôm nay, trong cảnh này, vợ dại con thơ, mẹ mù lòa còn ở lại, tôi đã đưa cho Hoa, phòng để cứu chết. Hoa đã gục đầu vào lòng tôi, nước mắt vơi đầy, đầu lắc quầy quậy. Hoa nói trong nức nở không rõ lời:
- Anh ơi! Anh đi đầy nguy hiểm, như chuyến anh Lợi, cả tàu bị bắt, anh lấy cái gì để xoay xở? Anh hãy cầm đi!
Tôi hiểu, chỉ vì lòng thương tôi, nên Hoa đã quên cả thân mình, quên luôn cả người mẹ mù lòa và đứa con 7 tháng rưỡi. Là một người chồng, một người cha và một người con trí thiển, tài hèn, nhưng tôi cũng không đờ đẫn đến nỗi quên, cả trách nhiệm và bổn phận.
Hai bên cứ khăng khăng từ chối cũng chỉ vì nghĩa, vì tình. Cuối cùng chỉ còn một giải pháp dung hòa, đó là lý do tôi dẫn Hoa đến một tiệm vàng ở Ông Tạ. Tôi đã nhờ người thợ, cắt chiếc nhẫn ra làm hai. Sau khi cắt, Hoa đã chộp lấy một phần non, phần của tôi đưa lên cân là 5 phân 3, như thế phần của Hoa là 4 phân 7, mỗi bên đều giữ kỹ ở trong người. ông thợ cám cảnh của một đôi vợ chồng nghèo, ông đã dõng dạc:
- Tôi không lấy tiền công, của anh chị!
Mới gần 2 giờ, trời còn nắng chang chang mà xe cộ ngược xuôi trên đường Thoại Ngọc Hầu, vẫn còn nườm nượp người đi. Một đám mây hồng rừng rục đỏ, đang đùn lên từ phía đường Trương Minh Giảng. Hai chú ngỗng trời trắng toát, vươn mãi hai chiếc cổ dài kêu oét . . .oét, sà thấp như đuổi theo Hoa và tôi quẹo vào Nguyễn Huỳnh Đức, để rồi chính Hoa đã vỗ vào lưng tôi, nói nhẹ:
- Hai con chim như nó bay theo mình. . . . .anh kìa !
Từ sớm, tôi lơ mơ cứ tưởng do ảo xúc của tôi, nhưng giờ tôi đã hiểu, đó là thật! Tôi còn ngửng hẳn đầu lên nhìn hai con ngỗng trời, miệng lẩm bẩm:
- Xin chào và cảm ơn các bạn!
Đến chỗ hẹn vẫn còn sớm gần hai chục phút, nơi đó cũng chả xa nhà thằng Đạt. Để Hoa đứng tại chỗ chờ, tôi vội vàng 5 phút ghé nhà Đạt, nếu gặp thì thay cho lời chào. Vợ chồng anh chị Đạt đều đi chạy chợ, chỉ có cháu Thủy và mấy đứa em nhỏ. Không ngờ, gặp lại cháu Thu Thủy từ chuyến đi bị bắt cả tàu. Thủy là con gái mới được tha gần một tháng, sau khi bị giữ 8 tháng ở trại Gáo Dừa Minh Hải. Cháu Nguyễn Đức Thắng là con trai (dù 16 tuổi) vẫn còn bị giam giữ, với nhiều người khác ở cùng tàu. Cháu Thủy mới từ trại tù ra, nghe tôi chào để ra đi, cháu đã rối rít đòi đi theo nữa.
Do lòng háo hức ra đi như một con chim non, chưa mọc cánh mà đã đòi bay. Muốn đi phải hẹn trước, hàng tháng, ngay đến vợ con của tôi, mà cũng đành bỏ lại. Nhưng việc này, tôi không quên được cháu Thủy, chỉ vì cháu lại đề nghị:
- Chú ơi! Chú hãy đổi cái áo với bố cháu, thì có thể lại thành công?
Lưỡng lự, không tin lắm, nhưng tôi đã chiều theo ý cháu Thủy, nói vội vàng:
- Chú cần chiếc áo càng cũ, rách càng tốt!
Tôi đã hấp tấp vừa cài cúc, vừa phóng xe trở lại điểm hẹn, cũng vừa lúc chiếc xe đò đông người, chờ bắt đầu chuyển bánh. Tôi chỉ còn kịp bỏ ông bạn thủy chung của tôi lại, cho Hoa và ôm chặt Hoa, để còn kịp trèo lên xe với nhiều tiếng giục giã:
- Lên đi! Cho kịp giờ, đón người khác!
- Chúng tôi đã chờ 5 phút rồi !
Tôi chỉ biết xin lỗi, vì một việc ngoài ý muốn! Xe đi đón hai người nữa rồi, một mạch phóng ra phía Vũng Tàu.
Trên xe đã có 16 người, không kể bác tài, một anh hơn 30 tuổi tên là Tuyến, bên ngành sư phạm, là bạn của Phạm Lộc, đón khách ở đường giây này. Từ lúc lên xe, có một cậu mặt mũi sáng sủa, nhìn tôi trong ánh trao đưa nhiều thiện cảm, một luồng lãng tử giao cảm của mắt tôi, đã trở thành gần gũi, cậu là Bùi Thiện, một chủng sinh trở về đời. Qua đồn Cỏ May xét hỏi giấy tờ xong, xe hướng về vùng Chu Hải. Đến một trũng của một rẻo đước già, xe ngừng lại. Theo sự dẫn đường của một ông hơn bốn chục, cao và gầy. Trong đoàn có vài người phụ nữ, cứ lếch thếch lầm lũi đi sâu xuống cái trũng.
Mặt trời đã chui dần xuống đám cây xanh ở phía Tây, càng đi cây rừng càng rậm rạp, không còn phân biệt được phương hướng. Đến một cái lũng thưa cây, ông cao gầy căn dặn:
- Các vị ngồi nghỉ nơi đây, chờ bắt với đường dây khác. Phải chờ, cho tới khi tôi trở lại!
Tôi kéo cậu Thiện đến một gốc cây to đổ, nằm nghiêng. Được biết bây giờ là lúc thủy triều xuống, triều lên thì vùng này ngập cả. Chừng một giờ sau ông Cao gầy trở lại, dẫn theo một đoàn cũng hơn chục người. Đã 8 – 9 giờ tối, cả đoàn người lại theo ông cao gầy đi tiếp, người này theo người kia, trượt ngã oành oạch, tiếng í. ..óe của mấy cô gái và đàn bà ré lên đây đó, rồi lại chìm nghỉm vào màn đêm. Ngoài cậu Thiện, tôi chẳng phân biệt ai với ai? Lạ thật! Trời lại rạng dần, à ra cô Hằng 16 đã lấp ló nhìn chúng tôi qua những cành lá, mặt của cô tròn vành vạnh (trăng 16 tròn hơn trăng rằm) và mát rượi, đăm đăm nhìn chúng tôi di chuyển.
Ông “cao gầy” lên tiếng từ phía người đi đầu, rồi người này truyền đến người kia:
”Hãy rảo chân, đến một khu đất cao, còn gần một cây số nữa, nước triều đã bắt đầu lên! “
Càng rảo chân thì càng mệt, tiếng ót . . . oét của phụ nữ lại càng oét . . . .ót hơn. Đúng là lên như nước thủy triều, vừa chạy qua thì nước đã ngập lên rồi. Lo chạy nước thủy triều, quên béng cái rình rập, chặn bắt của CA hay du kích địa phương. Mãi tới khi đến một mảnh đất trồi lên như một con bơn, cây cối rậm rạp um tùm.
Theo ông cao gầy, thì đây là chỗ nằm nghỉ, để liên lạc đón thuyền. Chỉ qua một vài hiện tượng đưa, đón, liên lạc, tôi đã cảm thấy người tổ chức chuyến đi này có khá nhiều kinh nghiệm, nhất là lại vào một đêm trăng tỏ.
Thông thường những chuyến oversea tổ chức vào những đêm tối trời. Người này đã làm trái với những quy luật thường tình. Ngay cả hải quan, CA hay du kích thường rình mò, nằm ếm chỉ chú ý vào những đêm tối, đầu hay cuối tháng. Những đêm rằm sáng tỏ là lúc chúng nghỉ ngơi, đi tìm những hưởng thụ.
Mỗi người, mỗi nhóm tự tìm lấy chỗ nằm thích hợp cho mình. Qua tôi và Thiện, tôi tin rằng tuy nằm nhắm mắt, nhưng chắc chẳng một ai ngủ được. Tôi không hề nghe thấy một tiếng ngáy có chăng chỉ là những tiếng thì thào của lá rừng, tiếng tỉ tê, róc rách của sông nước chuyện trò. Đôi khi, một tiếng cú rúc dài, như tù và cầm canh ở một điếm chòi, xa xa vọng đến.
Cô Hằng đã về sớm, để hẹn hò với bồ bịch, da trời đã đổi mầu, từ tím đen sang mầu nước biển về chiều. Tôi đã nhìn rõ những lá rừng to, nhỏ vẫy tay chào nhau buổi sáng. Tôi còn đang gửi hồn vào mông lung, thì mấy cậu thanh niên đã hớt hãi chạy đến, tôi cũng choáng người bò nhổm dậy. Ba, bốn cậu choai choai 15-17 rối rít chỉ trỏ, vào mãi phía trong rừng:
- Ong vò vẽ, chúng cháu chạy thoát thân, hàng đàn ong đuổi đốt chúng cháu, gần đến đây!
Cậu thì giơ tay, giơ mặt sưng đỏ lên như những quả táo dầm, tôi buồn cười vì các cậu cũng như tôi hồi nhỏ. Tò mò, sục sạo, lại đi trêu vào những tổ ong, để mặt mũi sưng tếu. Ông cha mình vẫn nhắc nhở, như cảnh giác đàn con: ” Muốn béo (mập) thì ghẹo ong bầu “. Như một luồng điện tín: ” Nơi đây có tổ ong, cũng có nghĩa vắng người! không có tụi áo vàng hay lui tới, rình rập “. Tôi hỏi một cậu:
- Có gần đây không? Tổ ong có to không?
Hai, ba cậu đều rối rít:
- Gần đây thôi, chú ơi!
- Tổ to lắm, trong một bụi mây rừng!
Trải qua những lần mặt bị sưng tím khi còn nhỏ, tôi lục trong tay nải, xé mấy miếng giẻ rách, đút túi quần, rồi theo các cậu đi sâu vào rừng. Lội qua mấy dòng chảy, vì nước đã lên, lách vào một khu toàn mây và song rừng.
Còn bé, tôi nhớ một lần, có một tổ ong rất to lủng lẳng trên một cành đa già, chùa làng bên. Cành đa nằm dài, sà xuống ao chùa, tôi và một thằng bạn, công trình nối buộc hai cành hóp dài đến 4 mét, lấy hai chiếc áo cũ trùm kín mặt, mò mẫm khẽ trèo lên cành đa.
Tổ ong vàng to như một quả mít hai ký, ong vàng đai đen (vò vẽ) bâu kín cái tổ như lông nhím. Từ xa tôi và thằng bạn, nhẹ nhàng lách thò chiếc que tới, định đẩy đứt cái cuống tổ, cho nó rơi xuống ao chùa. Nhưng trời ơi! Đàn ong bị động, chúng ùa ra theo chiếc que, túm vào tay, vào cổ tôi đốt. Người tôi nhói, buốt, tê cứng ra, nên rớt xuống ao chùa, cao hàng chục mét.
Tôi chìm nghỉm, hàng chục con ong vẫn bay trên mặt nước, chờ tôi. Tôi vừa ngoi đầu lên mặt nước để thở, chúng túm lại châm, đốt, tôi lại phải lặn xuống nước. Nhưng rồi lại phải nhô đầu lên, vì không thể nín hơi được nữa, trong khi chúng vẫn là là trên mặt nước . Mấy ông sư trong chùa chạy ra quát ầm ầm:
- Lặn xuống? Lặn xuống!
Cả thằng bạn của tôi cũng đang trối chết như tôi ở trong ao, đàn ong đuổi cả các ông sư, để châm đốt. Các ông sư cũng chạy thoát thân vào trong chùa đóng cửa lại. Tôi vừa mệt, người lại nhức buốt, cứ phải lặn dưới nước thì sẽ chết. Trong lúc ý chí tự tồn của con người trỗi dậy, tôi chợt nghĩ ra một cách, trước khi nhô đầu lên, hai tay tôi hất tung nước lên túi bụi. Ong có cánh bị ướt rơi xuống nước ngay, mà rơi xuống nước thì chết, không thì cũng làm mồi cho cá.
Trước khi chết, ong giẫy dọn vùng vẫy như chiếc mồi nhử, cá đớp liền. Đàn ong trên mặt ao, còn con nào cũng tháo chạy, bay về tổ. Ngay từ lúc thấy nước hữu hiệu, tôi đã gào gọi bạn tôi làm như tôi. Tóm lại nước đã cứu chúng tôi, ong đốt chỗ nào, thì nhúng nước ngay, nó sẽ giảm sưng, giảm buốt, nếu nhiều con đốt sẽ làm sốt, nóng lạnh.
Bốn cậu dẫn tôi đến một chỗ, đều đứng lại, chỉ trỏ vào mãi phía trong, giữa đám mây già:
- Tổ ong ở trong đó !
Tôi hiểu các cậu vẫn còn chờn, sợ ong. Nhìn còn xa hàng 7- 8 chục mét, tôi quay tìm một cành cây thon, dài gần 3 mét, một mình tôi lầm lũi tiến vào. Quẹo mãi tới một bụi mây già rậm rạp, to um tùm, tôi khẽ len lỏi tiến vào. Từ 5 – 6 mét, tôi đã nhìn thấy tổ ong, hình nó như cái loa kèn, đầu nhọn, ở dưới loe ra, những con ong vàng, chen chúc nhau bâu kín. Nhẹ nhàng, tôi rút mấy miếng giẻ trong túi, quấn chặt vào đầu chiếc cành mang theo.
Ong kỵ nhất là khói và lửa, tôi bật quẹt đốt đầu giẻ, khi lửa cháy, có khói, tôi từ từ thò vào phía dưới tổ ong, tôi đưa dần, đưa sát, ong như vỡ tổ, bay toán loạn, tôi huơ khói và lửa. Còn dăm mười con cố thủ chịu trận liều chết, không muốn bỏ đám con ở trong tổ. Nhưng ong làm sao khôn bằng người, nên cuối cùng đã bay chạy hết. Tôi lần mò, kiễng chân với lấy tổ ong, tổ ong nặng chịch, to như cái bát chiết yêu, đầy nhóc những con nhộng ong. Tôi đường hoàng cầm tổ ong to đi ra, trước những con mắt mở to của các cậu.
Cậu Thiện lúc này cũng đã mò đến, tôi hỏi các cậu có muốn thường thức, món nhộng ong không? Khó có chất tăng lực nào bằng, cậu Thiện lắc đầu, sợ không dám ăn, bốn cậu kia mừng ra mặt. Còn một chút giẻ, tôi bẻ mấy cành khô, đã có một ngọn lửa nhỏ, đủ hơ chín cả tổ ong, tôi xé cho bốn cậu một nửa, còn phần tôi một nửa. Món này tôi vẫn thích từ nhỏ, bây giờ tôi lại đang cần bồi dưỡng, để chuẩn bị với những trận say sóng, cố hữu của tôi.
Chuyến đi này cũng có một điềm lạ, tôi đã được bồi dưỡng một tổ ong, ngay ở chỗ nằm ếm, trước khi khởi hành. Mặt trời đã lên đến một con sào, ông “cao gầy” mới dóng dả mọi người theo ông, đi ra thuyền.
Xa xa ở một vụng bãi, một con thuyền to với cánh buồm nâu tươi nhọn hoắt đang nhấp nhô, lắc lư như đầu một chiếc bút lông đang vẽ, viết lên nền trời xanh lam. Con thuyền buồm duy nhất, nhấp nhô một mình trong bến vắng. Đoàn người, lần lượt lên thuyền, hơi ngạc nhiên, tôi ghé hỏi nhỏ ông cao gầy:
- Thuyền có máy không vậy ông?
Ông cười nhẹ, rồi lườm tôi, xong cũng nói nhỏ:
- Tình báo mà phải hỏi!
Tôi quay lại, nhìn ông, mí mắt trái tôi cũng hơi động đậy. Ông này là ai, mà đã biết về tôi? Tôi cũng hiểu luôn, ông này đã đánh giá về tôi sai lầm. ông tưởng tôi đã biết, nhưng thực sự tôi chưa hề biết gì cả, nếu có chăng chỉ là một chút phản xạ tức thời. Thuyền có máy! Qua cách ông hỏi và ông lườm tôi, nếu ông bình thường, tôi phải hỏi người khác nữa hay người chủ tàu.
Mặt trời như một bóng đèn pha cực mạnh, thỉnh thoảng lại ló mặt ra nhòm, sau những tảng bông gòn lổn nhổn, hỗn độn. Đoàn người lần lượt chui xuống hầm thuyền, mỗi người, mỗi gia đình tùy theo tìm một chỗ cho mình, một tiếng khàn khàn dõng dạc phía mũi thuyền:
- Hãy căng buồm lên? Tiến?
Đã biết nhược điểm của mình. . ., ngay những giờ đầu phải quan sát cảnh vật. . . ..được ít nào, sóng lùng của sông nước sẽ đè tôi nằm bẹp. Nghĩ thế, tôi bò ra sát chiếc cửa sổ con, ở mé thuyền.
Một đôi chim hải âu trắng toát từ phía bên kia bờ, xoải cánh đến đậu ngay trên đầu chiếc cột buồm, kêu en….ét, như chào, như tiễn biệt con thuyền viễn xứ. Buồm căng gió, con thuyền tiến dần, rồi rẽ nước tiến chui về phía trước. Tiếng bì bạch của sóng nước, vỗ vào mạn thuyền, nghe mơ hồ như dư âm của bài Thuyền Trăng vương vãi, vào gió mặn:
Gió đưa… con thuyền dạo chơi…xứ thơ…
Thuyền hỡi… nhớ về cùng bến….mong chờ.
Thuyền lướt theo gió chừng nửa giờ, bỗng một tiếng phì dài nghe như tiếng xì hơi của xe lửa Thống Nhất, làm nhiều người đều ngửng đầu nhơ ngác. Có tiếng nói nhỏ phía cuối thuyền, rót vào trong gió:
- Cá voi !
Tôi thò đầu, ngoái hẳn ra ngoài: phía bên kia chừng hơn 100 mét, hai đuôi con cá voi to như hai chiếc quạt giấy khổng lồ, mầu trắng xám dựng ngược, đang chìm dần xuống mặt nước. Những tiếng phì phì phun ra những luồng hơi nước trắng xóa trên sóng nước. Lần đầu tiên trong đời, tôi nhìn thấy, có một cụ già giọng khào khào:
- Đấy là điềm may!
Tiếng phì phì cứ đeo đẳng, hình như mấy con cá voi đang nô đùa đuổi nhau, theo con thuyền. Bóng ông cao gầy từ sàn trên đi xuống, nhiều người đều hướng mắt về ông; có lẽ ông thấy sự băn khoăn của mọi người, ông nói nhè nhẹ:
- Đàn cá voi con! Thuyền đã ra cửa biển!
Đột nhiên có hai phát súng từ phía xa réo lên, làm xanh mắt mọi người. Ông cao gầy chạy vội lên sàn, đóng cửa, tôi liếc nhanh phía bên ngoài, một chiếc ca- nô từ góc xa bên kia, đang chĩa mũi tiến về phía con thuyền. Nhiều tiếng quát tháo ở sàn trên:
- Bỏ lưới ra !
- Kẻo càng cản ra!
- Hạ lưới xuống!
Chiếc ca nô đã đến gần, chỉ còn khoảng gần 200 mét, mặt ai cũng trắng bạch ra, tôi chuẩn bị tư thế làm lại như chuyến trước ! Ở đây chỉ cách bờ hơn trăm mét! Chiếc ca- nô chỉ còn chừng hai, ba chục mét, tôi đã trông rõ 7- 8 tên CA biên phòng, đeo súng ống lố nhố.
Giữa cái phút giây ranh giới tù đày và tự do này, thì phía xa bên kia bờ sông, có một chiếc thuyền đang lao vút ra phía cửa biển. Mấy tên trên chiếc ca- nô chỉ trỏ về phía chiếc thuyền lạ, rồi chúng quay mũi ca nô về chiếc thuyền lạ phía xa, khi chiếc ca-nô quay mũi, thì chỉ cách thuyền buồm còn hơn chục mét, tôi đã nhìn rõ hai ngôi sao trên một vạch vàng, của một tên mặt bèn bẹt như lưỡi xẻng, xúc phân heo.
Hẳn chúng đã nhìn rõ chiếc thuyền buồm đánh cá, nếu có thời gian thì chúng cũng lên hoạnh họe hỏi giấy tờ. Vòi, moi, tí chút cà phê, thuốc lá, nhưng lại có con thuyền đang vùn vụt chạy máy ra khơi, chúng phải bỏ cái ”bóng” để bắt cái ”mồi “. Hiểu chuyện, thì cả chiếc thuyền buồm phải cúi đầu tạ ơn chiếc thuyền lạ ” cứu tinh “.
Tôi vẫn tin đời là kỳ diệu!
Khi chiếc ca-nô chạy xa chừng hơn 100 mét, thì những giọng quát tháo, hò hét lẫn lộn luồn vào trong gió lộng.
- Căng buồm theo gió !
- Kéo cản và lưới lên!
Ông cao gầy lại mò xuống sàn dưới, lần này ông đến gần khu giữa, cúi xuống nhấc một cánh cửa mở ra, ông thò đầu xuống hô
- Mở máy lên!
Con thuyền như rùng mình, rồi vùn vụt tiến ra khơi! Thật là nhịp nhàng kết hợp giữa nghệ thuật, nỗ lực của con người với sự giúp đỡ thần bí của đất trời. Tôi chợt thấy, nếu vì lý do gì bị chết máy, như lần trước, thì cánh buồm vẫn chậm chạp đưa thuyền đến bến. Một ý nghĩ phảng phất: Con thuyền này thân với thằng Lợi, biết đâu chả có ý kiến của nó, cho chuyện cánh buồm này?
Gió biển khơi càng lộng, buồm càng căng phồng ôm gió mặn, tiếng máy rù rì lẫn vào sóng nước, như một bản cộng hướng giữa khoa học và thiên nhiên, giữa cánh buồm và công suất của máy, con thuyền rẽ sóng đi vùn vụt. Mấy người ở sàn trên chuyện trò, bàn tán đã rắc lọt qua những kẽ hở, xuống dưới hầm:
- Chẳng một tàu CA nào, đuổi kịp chiếc thuyền này!
Phần vì đã tạm yên lòng, phần vì các bà thần sóng đã bắt đầu hành tôi. Người tôi nôn nao, chẳng cần biết nước, trời ra sao nữa, tôi nằm vật vào một góc thuyền mê man. Đã chuẩn bị sẵn, nên tôi không dám ăn uống hàng giờ, trước khi lên thuyền. Hai chiếc túi giấy, luôn để sẵn trong tay nải, thế mà tôi vẫn nôn thốc, nôn tháo, mật xanh, mật vàng vào túi giấy hết, tôi chẳng còn ý niệm giờ giấc, ngày và đêm. Tôi nằm lịm đi chẳng biết là bao lâu, mở mắt ra, người nằm mà cứ lắc lư như đua võng. Tiếng gió, tiếng sóng và tiếng máy thuyền rì rì, chả hiểu con thuyền đã đi được bao lâu?
Đã có những bài học từ những lần say sóng trước, tôi lục tay nải lấy hộp sữa đặc, tôi mút một ít sữa lấy lại sức. Sàn thuyền nằm la liệt đầy người. Tôi mút thêm tí sữa nữa, quấn gọn chiếc tay nải, rồi tôi mò lên sàn trên, bầu trời đêm tím ngắt như hoa sim đầu mùa Thu. Đồng hồ chỉ hơn hai giờ, gió biển lạnh thốc vào mặt, làm tôi tỉnh ra hơn. Buộc chặt chiếc tay nải vào người, tôi trèo hẳn lên sàn thuyền, sóng bạc đầu trắng xóa, đột nhiên một đàn cá đen xì, to như những con trâu mộng cứ nhào lộn đuổi theo con thuyền, một cảm giác huyền bí lạnh xương sống xâm chiếm hồn tôi. Tôi tưởng như những con quỷ biển đang đuổi theo để bắt, để nuốt những sinh mạng trong con thuyền nhỏ bé giữa đại dương bao la, bí hiểm.
Hàng chục con, vật lộn với những lớp sóng bạc đầu, gần đuổi kịp con thuyền. Có một con đen trũi, to như con voi ”ma-mút ” nhào tới sát đuôi con thuyền kêu en ét….hồng hộc, kéo dài như còi tàu hỏa: Nghe như tiếng rú gào của quỷ biển, đòi “nộp mạng”. Một luồng gió lạnh rót vào xương sống, làm người tôi nổi gai ốc! Thật lạ lùng, cảm giác của tôi giống như đã có lần, trong chuyến đi thuyền thằng Lợi, gần hai năm trước. Tôi đinh ninh tất cả những sinh mạng trong con thuyền, đã đến giờ phút chôn vùi, trong lòng đại dương huyền bí này.
Cảm giác tâm lý của con người, cũng kỳ diệu! Cũng những con cá này, nhìn chúng ở Aquarium, ở những hồ bơi trong thành phố, chúng như một món hàng ngộ nghĩnh, hiền lành, để ta đùa vui chiêm ngưỡng. Nhưng trong lúc này, thấy chúng huyền bí, có nhiều quyền lực linh thiêng làm chúng ta chết và sống! Tôi vẫn coi thường sự hiểm nguy coi cái chết là ” hòa “, vì có còn biết gì đâu mà sợ? Thế mà lại lạnh xương sống, nổi da gà trong lúc này?
Trong ánh sáng mập mờ của biển khơi, của trời rộng, rõ ràng, tôi nhìn thấy một con chim đứng co ro trên cái chạng ngang, đầu cột buồm. Có phải con chim không? Tôi không tin ở mắt mình! Chung quanh chỉ có nước với trời, làm gì có con chim nào, lại đậu ở trên thuyền?
Như một luồng điện nhoáng lên trong óc tôi! Đúng rồi! Nó là một trong hai con hải âu ở vùng Chu Hải Vũng Tàu, đã đến chào tiễn biệt con thuyền viễn xứ này mà? Vậy còn một con nữa ở đâu? Không biết cho đến giờ đã mấy ngày đêm rồi? Rõ ràng nó chẳng có cái gì ăn, uống, chẳng được nằm, cứ đứng chịu lạnh trong gió lộng suốt đêm ngày. Lòng thương cảm giàn ra, tôi muốn gọi nó xuống, tôi sẽ vào hỏi bà con trong thuyền kiếm cho nó chút lương thực, nhưng tôi loay hoay không biết cách nào để nói chuyện với nó. Sao nó lại không biết đây là một con thuyền vượt đại dương? Có phải nó đến chào con thuyền? Một người bạn nữa đã đi đâu? Hàng chục điều, tôi muốn hỏi nó mà đành câm nín.
Người tôi vẫn lao đao, cồn cào với con thuyền lắc lư, nhưng vì tình thương con chim, nó còn đang phải chịu đựng những cái khó khăn, mà chính tôi không thể gánh chịu được. Chính vì niềm lắt lay với con chim, bệnh say sóng của tôi đã giảm đi rõ rệt.
Tôi nhìn, ở mãi góc gần buồng hoa tiêu, có một cái thang nhỏ chừng hai mét. Lảo đảo tôi mò đến, tháo cái thang. Khi dựng vào cạnh cột buồm, con thuyền cứ nghiêng ngả, ngay cái thang không, cũng còn không đứng vững, nếu trèo lên thì sẽ đổ ngã.
Đổ ngã ở đây là xuống biển chơi với mấy con cá đang đợi chờ. Hơn nữa với con mắt ước lượng, dù có trèo lên thang thì cũng không tới con chim, vì lòng cảm xúc với con chim đang gặp cái khó khăn nghiệt ngã, nên tôi cứ định trèo lên để cứu nó.
Tôi đã lướt qua, không lượng định hết những điều, tôi không thể làm được:
- Không thể trèo được, trong khi con thuyền nghiêng ngả.
- Có trèo được, cũng không với tay tới.
- Nó có đồng ý để tay tôi, cầm vào người nó hay không?
Từ nãy, tâm trí của tôi để hết vào chuyện con chim. Một người từ sớm, trong phòng hoa tiêu đã theo dõi mọi hành động của tôi. Anh ta đã lách ra từ phòng hoa tiêu, cầm theo một thanh gỗ dài gần hai mét, lom khom đến gần tôi, chỗ cột buồm. Chính là cái anh chàng cao gầy đã lườm tôi một lần, khi tôi hỏi “thuyền có máy không?”. Gió bắt đầu lộng thêm, rồi có mấy tia chớp lằng nhằng, vạch ngang dọc ở một góc trời (tôi chả còn biết là hướng nào). Những tiếng nổ gầm ghì, rung rinh cả biển, lẫn trời.
Lộp độp những hạt mưa to tướng gõ vào sàn thuyền, như đàn gà mổ thóc trên cái nia. Trời như bị rách, rạn ra, do sấm chớp, nước đổ xuống ào ào, mưa như trút nước, tôi chưa thấy mưa nhiều và to hạt như vậy trên đất liền.
Con thuyền càng chồm lên, ngả nghiêng, nhưng anh chàng cao gầy vẫn đặt cái thang vào cột buồm, rồi ghì đè chặt, tiếng anh quẩn vào hạt mưa:
- Tôi giữ, anh trèo lên đi!
Lại có một người nữa không ngại mưa gió như mình, tôi đã cầm lấy thanh gỗ và nhìn xuyên mưa, vào mắt anh. Tôi không nói ra lời, nhưng tôi tin anh đã hiểu, tôi muốn nói qua ánh mắt: “mưa gió không cản trở chúng ta được”. Bản thân tôi cũng không ngờ, mưa và gió đã làm cái bệnh say sóng của tôi, từ từ giã biệt tôi
Con chim càng giúi đầu vào cái khe cánh buồm, ướt như chiếc giẻ dúng vào thau nước, nó đờ đẫn mê dại không còn cái rụt rè sợ sệt, của một con chim. Lúc đầu tôi đưa thanh gỗ đến, nó không hiểu, nên như muốn tránh, có thể sau nó đã hiểu ra, hoặc ” cu cậu ” chả còn cách nào khác nên đã ngoan ngoãn bấu chặt vào đầu thanh gỗ tôi đưa đến. Tôi đã ôm nó vào người, như muốn sưởi ấm cho nó, nhưng tôi quên mất là người tôi cũng ướt chẳng khác gì nó.
Tôi và con chim, đã theo anh cao gầy vào phòng hoa tiêu. Trong phòng, có một bác gần sáu mươi tuổi, qua ánh mắt và đôi cánh tay đang điều khiển con thuyền, đã nói lên phong độ con người của bác, và một thanh niên trẻ gần hai mươi, là con trai của bác. Tôi lạnh và con chim cũng lạnh ướt, anh cao gầy cũng ướt át dẫn tôi xuống hầm máy, để sưởi và thay quần áo. Ngoài trời biển vẫn sấm chớp mưa rơi tầm tã, nửa giờ sau con chim đã tỉnh dần, cu cậu thoáng nhìn cái cóng gạo tôi đưa đến, đã mổ lấy mổ để, chẳng cần đợi tôi mời. Tôi muốn hỏi nó:
- Mày là con trai hay con gái?
- Ở vùng Chu Hải chúng mày muốn đến chào tiễn chúng tao đi hay chính chúng mày cũng muốn vượt biên?
- Người bạn của mày, vì sao bỏ lại mày một mình?
Còn nhiều câu hỏi nữa, nhưng tôi đành chịu chết, tự suy đoán mà hiểu.
Bây giờ thì tôi đã biết, con thuyền đã đi được hai đêm với một ngày rưỡi, với sức máy và cánh buồm kết hợp, qua anh cao gầy, con thuyền có thể đi hàng chục hải lý một giờ. Khi sưởi ấm ở cạnh máy thuyền, tôi được biết anh cao gầy là Trần Ngọc Nghĩa, anh là đại úy, binh chủng mũ đỏ, với mầu mũ này anh đã vùng vẫy ngang dọc trên khắp bốn vùng chiến thuật. Đơn vị của anh là mũi dùi cởi vòng vây An Lộc, anh đã bị thương nhẹ một lần, và anh cũng nằm ấp hơn sáu năm. Điều lý thú là anh cũng đã từng ở trại T 52 Hà Sơn Bình, anh mới được ra tù đầu 1982. Lúc đầu gặp anh, ở khu vực nằm ếm Chu Hải, tôi và anh lạnh lùng, tưởng không ưa nhau. Nhưng chính do con chim hải âu vượt biên, là một giây nối, để rồi có điều kiện cùng sưởi quần áo, trong hầm máy với nhau. Anh đã thân quen với vợ chồng Phạm Lộc+ Liên, nên hẳn anh đã biết một chút về tôi như Phạm Lộc. Vậy với những điều Phạm Lộc biết về tôi, để nói chuyện với Nghĩa. Một điều lý thú nữa, Nghĩa ở trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức ra, tôi vội hỏi, ra trường năm nào và học khóa nào? Nghĩa nói với vẻ mặt tự hào, hơi một thoáng đăm chiêu:
- Tôi ra trường cuối 1963, học khoá 12.
Tôi không thể ngờ Nghĩa lại ở khóa sát tôi, ít ra cũng cùng một mái trường, dù tôi chỉ hơn một tuần lễ, nhưng tôi đã không hề đề cập vấn đề này với Nghĩa.
Chỉ ngày hôm sau, con chim đã quen với người. Có người cho nó ăn, cái này, cái khác. Thậm chí mấy đứa nhỏ cho nó ăn cả kẹo, con chim mến người, có lúc nó lên cả sàn thuyền, nhưng nó vẫn không bay đi! Tôi chợt nghĩ: Nếu nó có muốn bay, thì bay đi đâu? Chỉ có trời với nước, hơn nữa ở lại, có đủ thức ăn cho nó sống. Còn một điều nữa: ” Tôi nghĩ thầm” Đã cùng là người tỵ nạn trên một con thuyền, phải gắn bó sống chết với thuyền, như mọi người.
Một buổi trưa, tôi chìm vào một giấc ngủ bù mê mệt, chẳng biết bao lâu, có người lay tay tôi dậy. À con chim! Chiếc mỏ mầu lá mai già cứ ngậm vào ngón tay cái của tôi, cắn nhẹ rồi lại cắn liên tục, nó như có ý muốn ngả nằm cạnh tôi. Tôi dịch lại, và nó đã nằm sát ngay bụng của tôi, một hơi ấm lăn tăn chuyền qua giữa chim và người.
Mắt nó vẫn mở trừng trừng như đeo kính, con ngươi của nó mầu hồng hơi hung đỏ, giữa một vòng mầu vàng bắp chín không động đậy. Tôi cũng chưa biết hải âu ngủ có nhắm mắt không? Mắt tôi dìu xuống, lơ mơ, dòng tư tưởng của tôi vẩn vơ về con chim, cứ cho là nó cũng có ý vượt biên đi ra ngoại quốc như chúng tôi.
Chúng tôi rõ ràng là vì chính kiến ngược chiều với lũ cầm quyền, vậy nó thì vì sao? Tôi không thể tìm ra một lý do nào khác, ngoài vấn đề kinh tế, một xã hội quá đói khổ, con người còn vật lộn tìm cái ăn, còn đâu có thừa thãi cho chim? Một ý tường chợt lóe lên, nó cũng vì chính trị nên đã vượt chạy ra nước ngoài.
Khi người dân thiếu đói, nếu thấy chim, hay bất cứ con vật gì đều tìm cách bắt hay bẫy, ráo riết hơn, cuộc sống của chúng nó cũng không yên lành. Tôi mở mắt ra nhìn con chim, mắt nó vẫn thao láo không động đậy, nhưng cái nhìn của tôi bây giờ là nhìn một sinh vật đồng cảnh tị nạn, khác với những ngày trước. Tôi chợt nhìn xuống lưng phía cánh phải của nó, bị cháy xém đen một đám. Tôi bò giựt dậy, làm con chim cũng thức đậy đứng lên.
Tôi nhìn quanh, không hiểu ai đã làm con chim bị cháy thế này? Nhiều người nhìn tôi, có hai cậu thanh niên, lách người tiến đến, một cậu nhìn chỗ cháy xem của con chim, rồi quay lại tôi:
- Chúng em xin lỗi, khi nãy vô tình vất một cái tàn thuốc lên lưng nó, nằm góc kia. Khi có khói, chúng em dập ngay, chỉ xém mấy cái lông, người nó không sao!
Tôi vạch chỗ đó, thì quả như vậy, hơi buồn, nhưng tôi đã ca ngợi các cậu là những người có lòng tự trọng, có bản lĩnh, dám nhận cái lỗi, dù nhỏ của mình.
Tôi ôm con chim mò lên sàn thuyền, mặt trời đã ố vàng ngả dần xuống mặt nước về hướng Tây. Trên sàn lúc này cũng có nhiều người, có thể con thuyền đã đi được 4 – 5 ngày, đã nằm ngoài hải phận Quốc Tế, không sợ tàu Hải quân cộng sản nữa.
Niềm hy vọng đã thập thò, le lói ra từng khóe mắt của mỗi người. Đã có những gia đình, mang cả bạt, cả chiếu trải ra để nằm, ngắm trời, mây, gió, nước, nhất là từ chiều, gió giảm nhẹ dần.
Cánh buồm hơi đói gió, chỉ còn một mình sức máy vừa đủ, đẩy con thuyền đi từ từ. Mặt trời còn cách mặt nước chừng hai con sào, thì gió lộng dần, sóng bắt đầu nhổm dậy cuồn cuộn, trắng cả đầu. Cột buồm hình như gù xuống, bụng phình to ra, một vài tiếng gầm ghì của sấm rền mãi chân trời, phía dưới nước. Con thuyền tôi có cảm tưởng, như một người khách bộ hành, khi sớm đang thả bước nhàn du, ngắm trời, nước, ngắm thiên nhiên; nhưng trời đã chiều, nhà còn xa, nên rảo bước nhanh hơn. Một thoáng lòng tôi chạnh nhớ đến Bà Huyện Thanh Quan, trong đoản thơ Hoàng Hôn Nhớ Nhà 2, vần ” ôn “.
Trời chiều bảng lảng …….bóng hoàng hôn.
Tiếng sấm xa nghe………lẫn sóng dồn.
Gác mái ngư ông ……về viễn phố.
Gõ sừng mục tử…..lại cố thôn.
…….
Kẻ chốn trang đài………người lữ thứ…..
Lấy ai…..mà kể…….nỗi……hàn ôn.
Bây giờ thì người khách bộ hành, đã ba chân bốn cẳng chạy như điên, người ta sợ gió lộng, và có thể mưa nên đã kéo nhau dần hết xuống dưới sàn. Cái người ta sợ, người ta không thích thì tôi lại ưa, tôi quàng cái áo của thằng Lợi phế thải, từ mấy tháng trước để đi làm ở Biên Hòa. Tôi ủ con chim vào bên trong, mò ra một góc khuất phía sau buồng hoa tiêu phía cuối thuyền. Một chỗ ngồi lý tưởng để nghe gió lộng, để nhìn những núi sóng cuồn cuộn gào rú và để cảm nhận cái thú ” một thuở ngàn năm ” ngắm mảnh mặt trời chiều, chui xuống biển.
Từ sớm tôi đã lách vào phòng hoa tiêu (do anh Nghĩa tôi đã quen), hỏi bác thuyền trướng nhiều kinh nghiệm, là thuyền đi về hướng nước nào? Bác là Lý Văn Bang, đã dè dặt cho biết:
“Do ba ngày trước, khi ra khỏi Côn Sơn, gặp một đoàn thuyền đánh cá; bác biết là từ đảo Phú Quốc, bác đã chạy tránh, nên hơi bị sai lệch tọa độ. Vì thế, bác không thể xác định 100 phần trăm, chỉ biết gần đúng! Thuyền có thể đến Mã Lai hoặc Indo, và cũng không biết chắc, là từ 3 hoặc 5 ngày nữa “.
Tôi đang ngồi lắng đọng thả hồn vào tiếng sóng dào dạt, réo gọi gió, tôi giật mình, có ai bẹo, chí vào bụng tôi. Ối giời ơi ! Con chim chó chết! Tôi thông cảm cùng cảnh ngộ, nên ủ vào người cho cu cậu (hay cô nàng) yên ấm. Không ngờ, ” cu cậu ” lại dùng mỏ ” bẹo, chí ” bụng của tôi. Tôi thò một tay vào nắm nhẹ đầu nó, hơi ve vuốt, thế là cu cậu lại ngoan ngoãn nằm yên.
Con chim đã làm cho ruột gan tôi như quấn, cuộn lại với nỗi nhớ thương người mẹ mù lòa của tôi, không biết bây giờ người ra sao? Nhưng tôi biết rõ, và tin như thể tin tôi, là mẹ tôi vẫn ngày đêm dõi theo bóng dáng người con trai này của mẹ; ruổi rong sống và chết trong biết bao nhiêu tình huống người không thể biết. Vì thế, chắc chắn người vẫn cầu khấn Chúa và Đức Mẹ, cho người con trai này. Một nỗi nhớ cồn cào về người mẹ kính yêu, lẫn vào trong tiếng sóng, tiếng gió tôi nghe rõ những lời của bài “Lòng Mẹ” của Y Vân:
Lòng mẹ bao la như biển… … Thái Bình…. dạt dào.
Tình mẹ tha thiết như dòng…. suối hiền…. ngọt ngào
Lời mẹ êm ái…. . như đồng lúa chiều …. . rì rào… … … …. Thương con…. thao thức bao đêm trường
Con đã yên giấc mẹ hiền….. vui sướng biết bao
Thương con khuya sớm….. bao tháng ngày
Lặn lội gieo neo….. nuôi con tới ngày lớn khôn

Dù cho mưa gió…. không quản thân gầy….. mẹ hiền
Một sương hai nắng…. cho bạc mái đầu buồn phiền
Ngày đêm sớm tối vui cùng….. con nhỏ một niềm
Tiếng ru êm đềm…. mẹ hiền năm tháng….. triền miên

Bao năm nước mắt…. như suốí nguồn
Chảy vào tim con, mái tóc chót….. đành đẫm sương … ….
Dù cho phai…. nắng nhưng lòng thương chẳng lạt màu
Vẫn mong quay về….. vui vầy dưới bóng….. mẹ yêu.
Tôi đã nhắm mắt lại, và lịm đi cho hồn tôi ngâm giầm vào lời ca, tiếng nhạc. Rồi cũng chính con hải âu đang nằm trong bụng tôi lại ngó ngoáy, cựa quậy để cho hồn tôi lại chảy dài về với người vợ thương yêu và đứa con gái yêu của tôi. Con tôi còn nhỏ quá chưa biết gì, nhưng chắc chắn em Hoa yêu thương của anh cũng nát lòng, dù cho em có là người được trời phú cho dễ ngủ.
Anh vẫn tin chắc, em đã có những trận cuồng phong, bão tố ở trong lòng. Có thể người chồng của mình ra đi sẽ:
- Gặp cướp biển
- Bị hải quân tuần tiễu của lũ cộng đuổi bắt!
- Cuồng phong, bão tố của biển khơi, đã nhận chìm xuống lòng biển!
- Đến nơi, đến bờ nhưng đã thay lòng, đi với người khác?
Nghĩa là, người chồng ấy đến 90 phần trăm là ra đi không trở lại. Một mình lẻ bóng, ôm đứa con thơ với người mẹ mù lòa, giữa chợ đời đói khổ !
Nhìn về phía Đông Bắc tím thẫm trong dáng chiều, mấy vạt mây đen nằm trải dài sát mặt nước. Tôi hiểu, nơi ấy là quê hương, tổ quốc của tôi, có mồ mả ông cha, tổ tiên, có người mẹ mù, người vợ trẻ và đứa con thơ của tôi. Ruột tôi như cuộn vò lại, em Hoa ơi!
Để lòng anh phần nào đỡ nẫu, nát trong nhớ thương, anh nhớ khi chúng ta nên đôi chồng vợ, có một lần anh hát tặng em bài ca Hoa Biển. Chỉ vì bài ấy có cái tên là “hoa”. Giọng của anh như cơm nguội, ăn với nước dưa chua.
Bây giờ, trong hoàng hôn lộng gió giữa biển khơi, trên con thuyền vô định, anh sẽ dùng tiếng gào của sóng biển thay tiếng đàn, và tiếng gió quất đập của cánh buồm, thay nhịp trống. Một mình, anh hét, hò giữa trời, nước mênh mông, không sợ ai nghe:
Ngày xưa … … …em anh hay hờn dỗi!
Giận anh khi anh chưa kịp tới… …
Trùng khơi…….nổi gió lênh đênh triền sóng…..
thấy lung linh rừng hoa.
Mầu hoa ….thật trắng, ôi hoa nở thắm…….
ngất ngây lòng thêm…….
Vượt bao hải lý……chưa nghe vừa ý…….
lắc lư con thuyền đi,
Chỉ thấy bọt nước, tan theo ngọn sóng…….
dáng hoa kia mịt mùng……
Em ơi………buồn phiền…….x
in như hoa sóng…. tan trong đại dương
(Hoa Biển của Anh Thy)
Mặt trời đã chìm xuống lòng biển từ lâu, phía trái một mảnh trăng gầy đúng một nửa, như con mắt của dạ thần đang lườm nguýt, con thuyền đơn độc giữa đại dương. Nhìn mảnh trăng sầu, tôi nhớ đến một ý thơ, đã trở thành ca dao phổ cập:
Vừng trăng… …ai xẻ làm đôi?
Nửa in gối chiếc……nửa soi …….dặm trường. . …
Một làn hơi lạnh ngóm luồn vào trong gió, lách vào cổ, vào tai làm cho tôi rùng mình. Hẳn đã 9 – 10 giờ đêm, tôi mò xuống sàn về chỗ nằm. Tôi lục cái tay nải, tìm cái túi gạo con con, tôi đã xin được của một gia đình. Tôi bốc ra một nắm để vào cái cóng sữa bò. Chỉ một bóng đèn dầu treo mãi phía vách thuyền gần ca-bin, ánh sáng le lói một vài tia mờ mờ vươn tới; thế mà con chim vẫn mò mẫm ăn cho bằng hết chỗ gạo.
Tôi cố gắng lảo đảo đem chiếc cóng lại bồn nước lấy đầy cho nó. Tôi loay hoay tìm chỗ ngả lưng, quay laị con chim đã mò uống hết cả nước rồi. Phần tôi đã 4-5 ngày với hộp sữa Ông Thọ khi nào quá mệt tôi lại mút một ít. Hôm nay đã cạn rồi, tôi mượn cái mở hộp của một bà có con nhỏ, tôi xin ít nước sôi cho vào khoắng uống hết. Tôi lại ôm con chim vào lòng, nằm kềnh ra để nghe tiếng nhạc kẽo kẹt của con thuyền, lướt về phương trời mờ mịt.

46. RA KHƠI ĐẾN BỜ

Đã mấy ngày rồi, con chim và tôi đều như muốn tìm một chút hơi ấm của nhau, trong chiếc áo nhựa. Nó cứ rúc mãi vào sát bụng tôi, hồn tôi đang liu riu lững lờ vào giấc mộng bập bềnh, của con thuyền. Bỗng có tiếng xôn xao:
- Có ánh đèn!
Như một tiếng ” phèng ” trong đêm đen choảng vào con thuyền! Tôi và nhiều người nhớn nhác bò nhổm dậy, tôi nhào tới cửa, rúc lên sàn thuyền. Giữa cái thẫm đen mịt mù của trời và nước, rõ ràng có một vũng rạng ra, trắng như chiếc ngà voi, tưởng rằng có một ánh sao trong làn mây. Nhưng rồi như có một mảng mây dầy, chậm chạp che dần, rồi trở thành một mầu đen thẫm, như chung quanh.
Người ta kéo xuống hầm thuyền dần, tôi còn ngồi lại cố mong chờ trong chỗ mù mịt tối đen ấy, sẽ có một nguồn sáng để mang niềm hy vọng cho con thuyền. Phần vì mấy ngày nay giấc ngủ chông chênh, cứ khi nào mệt quá thì thiếp đi một lúc. Phần khác, có thể sức mòn vì thiếu ăn, vẫn chỗ ngồi dựa một góc khuất sau buồng hoa tiêu, tôi đã đi vào miền mất cảm giác lúc nào không hay.
Mãi tới khi như có người sờ vào cổ tôi gãi gãi, mở mắt đã thấy nước trời đổi thành mầu lá nhãn. Tôi đã nhìn thấy mầu trắng của những làn sóng bạc đầu. Con chim tị nạn đã chui ra khỏi bụng tôi từ bao giờ, nó đứng sát ngay mặt tôi, một chân trên vai, một trên ngực. Cái đầu nó cứ dụi vào cổ tôi, như muốn đánh thức tôi dậy, phía chân trời đã rạng hồng, rồi đỏ lên. Tôi đã ôm con chim vào lòng như một lời cảm ơn, gọi tôi dậy để tận hưởng ánh bình minh của đất trời. Nhưng rõ ràng, lẫn vào tiếng rì rào của sóng, có mấy tiếng kêu:
U oách… u… . .oách… khu… . .oách… khách … khách… Rồi bỗng nhiên, chính con tị nạn ở ngực, vai tôi cũng rối rít kêukhu… oách… khu … oách… Từ ngày tôi cứu nó, chưa bao giờ tôi thấy nó kêu. Nó làm cho tôi quên cả mệt, cả đói, tôi ngồi hẳn dậy. Một nửa cái nia đỏ như nhuộm máu bò, đã thò lên khỏi mặt nước, từ mặt biển phía Đông, làm đỏ hồng cả cánh buồm và con chim. Một đàn bảy con hải âu trắng toát đang bay lượn quanh con thuyền, miệng kêu: Khu … oách… khu . . . .oách… . Con tị nạn, mắt chớp lia lịa, lại giụi đầu vào cổ tôi, thái độ hưng phấn khác thường. Nó giang hẳn hai cánh ra vẫy vẫy, như đáp lại đàn hải âu đang bay lượn, nó ngửng hẳn cổ lên trời miệng lại kêu: Khu oách… . khu… . oách… .Tôi đờ hẳn người ra, chưa kịp phản ứng, con chim lại nhẩy lên vai tôi, rồi lại giụi đầu vào cổ tôi như khi nãy. Tôi chợt hiểu, nên tôi khẽ vuốt đầu nó, và tôi gật gật.
Nó sải cánh một cái rồi bay vụt lên theo đàn hải âu bay đi mất hút chỉ còn vẳng lại những tiếng khu… oách. . . ..khu … .oách…nhỏ dần. Tôi bần thần cả người, con chim đã bay đi rồi ư? Tôi ngồi xuống mạn thuyền, lắng đọng đăm chiêu: Như thế vừa rồi, tôi đã lầm, tôi tưởng con chim giụi đầu gọi tôi dậy, để ngắm ánh bình minh của đại dương? Nó gọi tôi dậy, chào tôi để ra đi với đồng loại, dù sao nó cũng có nghĩa, có tình, tôi bằng lòng. Một cánh tay đặt lên vai tôi, anh Nghĩa, giọng đứt quãng của anh quẩn vào gió mặn:
- Anh đã giúp nó toại nguyện! Tìm được khung trời tự do!
Nghĩa đã biết tôi ngồi suốt đêm qua, phía sau buồng lái, một ý thoáng đến, tôi vồ vào vai anh Nghĩa: ” Gần đây phải có đảo hay đất liền ! ” Nghĩa đã nắm chặt tay tôi, nói như gà gại ổ đẻ:
- Thấy đàn chim, từ sớm chúng tôi đã nghĩ như anh!
Như vậy họ đã biết trước tôi rồi! Cũng có nghĩa ánh đèn sáng mơ hồ đêm qua, không phải trong hồ mơ? Anh Nghĩa kéo tôi vào buồng lái, tôi gặp lại bác Bang, tôi mới hiểu bác và Nghĩa có họ hàng. Nghĩa lôi ở một cái hộc ra gói bánh ngọt, chính bác Bang cũng đang băn khoăn, theo bác phải hai ba ngày nữa mới tới Indo hoặc Mã Lai, nhưng khi thấy đàn chim thì đảo hay đất liền phải gần đây, dù sao cũng mang nhiều hy vọng.
Nhìn nét mặt cương nghị, từng trải của bác Bang, tôi rất mến mộ, bác cũng tỏ thiện cảm, bảo Nghĩa cầm lái. Bác kéo cái “phích” có cà phê nóng, bác rót một ly con đưa cho tôi, với thái độ “gió sương” không mời. Từ lúc Nghĩa chưa lôi gói bánh ngọt ra, cái mùi mê người của nó, đã luồn ra chọc tứ tung vào mũi tôi rồi, nên khi bác đẩy bọc bánh đến vẻ “khinh tài” thì sao tôi từ chối?
Bác thăm hỏi một số nét về tôi, tôi cũng sơ lược, đi tù về là phải từ giã quê hương ra đi v.v. . . Xuống hầm về chỗ nằm, nhìn thấy cái cóng con đựng gạo, không biết con tị nạn bây giờ đã đi đâu? Hẳn nó đã có một cảnh đời mới ! Như cụ Nguyễn Công Trứ đã kết luận: Rút cuộc lại… … … mỗi người, riêng mỗi kiếp!
Gần trưa lại có tiếng ồn ào phía cuối thuyền, giọng một bà lanh lảnh:
- Có chiếc tàu to lắm!
Một số người xô nhau trèo lên sàn, tôi hơi mệt, nhưng cũng là những người đầu tiên mò lên sàn thuyền, chỉ chừng 8- 10 cây số, một chiếc tàu trắng toát, trông như một toa xe lửa, hay chiếc xe “buýt” dài ở gần. Không thể nhìn thấy cờ nên không biết là tàu nước nào. Bà con vui mừng hô hoán, có người nhẩy lên gào, vời, nhưng con tàu hình như bé dần lại.
Mấy người nhanh trí đã lấy giấy báo và giẻ cũ đốt lên, con tàu cứ mỗi lúc bé lại và mờ đi, để rồi lẫn vào những lớp sóng bạc đầu mất tiêu. Con tàu hình như không hề trông thấy con thuyền buồm đơn độc, như một chiếc lá tre khô trên dòng Cửu Long cuồn cuộn chảy. Hay lương tâm nhân loại, đã chuyển thành lá cây, của mùa Đông?
Con thuyền như gần lửa, sôi lên, nhưng một trận mưa rào đã làm ngọn lửa tắt rụi. Hôm nay đã là ngày thứ sáu, của con thuyền buồm, nhiều người đã tỏ ra mệt nhoài, ăn uống ngủ nghê thất thường, cộng với tinh thần căng thẳng lắng lo với công an cộng sản, cướp biển, bão tố v.v… Chưa nói nếu ai lại bị say sóng như tôi thì chỉ có nằm bệt. Còn hàng chục thứ khác giằng co, vò xé trong đầu của một người bỏ nước ra đi.
Mảnh mặt trời chiều đang chui dần xuống mặt nước, mầu gạch cua của da trời chuyển thành mầu lá mồng tơi già, phía Tây Nam lại rạng ra mầu nghệ non. Rõ ràng, không thể chệch vào đâu được nữa, tôi đã xô vào buồng lái gào, gọi bác Bang và anh Nghĩa :
- Bác và anh Nghĩa hãy coi kia !
Tay tôi chỉ về hướng có mấy ngọn đèn lẫn vào lớp sóng trắng đầu, lúc nhô lên, lúc lại mất đi. Bác Bang đã chuyển mũi hơi chếch về phía Tây Nam và những điểm sáng mỗi lúc càng sáng tỏ. Bà con chỉ có vài người mò lên, sợ cũng như những lần trước, thậm chí tôi đã trông thấy những bóng cây và cây tháp có bóng đèn, có lẽ là ngọn hải đăng của những vùng ven biển.
Lúc này thì bà con xô lên như vỡ đê; có lẽ ai cũng muốn chính mắt mình, phải nhìn thấy một lần cái bóng dáng tương lai có giống, ở trong đầu? Tôi vào gặp bác Bang, anh Nghĩa để biết ý kiến, không ngờ lại gặp cả Phạm Lộc, vì không một ai biết rõ đây là đâu?
- Thuyền của mình chưa, phải ở tình trạng cấp cứu.
Do đấy họ đều quyết định hãy bỏ neo ở bên ngoài đêm nay, sáng mai, nhìn rõ hãy cho thuyền tiến dần vào, rồi tùy theo để quyết định. Tôi thấy họ giải quyết như thế là có thận trọng và hợp lý. Tôi cũng thấy mệt quá rồi, bà con kéo lên đầy trên sàn chuyện trò bàn tán rôm rả, tôi lại mò xuống tìm một chỗ yên vắng nằm nghỉ một đêm cho lại sức. Tôi gặp cậu Thiện, lại có chăn ấm, thế là tôi nằm ngay cạnh cậu, vài câu chuyện đổi trao, rồi tôi vào giấc ngủ say, sau khi được một bữa bánh ngọt không mong mà có buổi sáng nay. Tôi ngủ mê man, như chưa được ngủ bao giờ.
Tôi cảm thấy ngực của tôi bị ai đè, thì ra một cái chân nặng chịch, vắt lên cổ và ngực tôi. Trong bóng đêm không nhìn được bàn tay, tôi đẩy cái chân xuống, không biết chân của ai, da thịt mềm như tơ, và mát như lụa Hà Đông, tôi đờ người ra. Sau khi đẩy cái chân ra rồi, nằm im, tôi không dám cựa quậy, tôi cố hé mắt nhìn để phân định là ai? Không thể nhìn được gì, tôi nằm chịu trận, óc phán đoán: ” Trong cái chỗ đông đầy người, tâm tư căng thắng sống và chết, chắc là những người nằm gần chung quanh? “.
Do lòng háo hức, nên mới rạng sáng tôi đã bò dậy, định lên sàn, nhìn vào phía đất liền để phán đoán. Qua vị thế, tôi đã nhìn thấy người gác chân lên ngực tôi đêm qua, là một cô gái chừng 17 – 19, vẫn còn nằm mê mệt với mấy người phụ nữ khác.
Trong làn sương mỏng của buổi sớm, tôi đã nhìn thấy cây xanh và một số mái nhà mầu nâu nhạt. Bỗng một đàn hải âu từ hướng trái bay đến, chúng chao đảo, lượn vòng với những tiếng kêu quen thuộc: Khu oách… . khu … . oách…
Không biết có con tị nạn không? Tôi nhìn lên thấy con nào cũng giống con nào? Liếc vào phòng hoa tiêu, loáng thoáng thấy bóng người, tôi đến ngó vào, 4 – 5 người, ngoài bác Bang và anh Nghĩa, có mấy người lạ. Họ định kéo buồm cho thuyền tiến dần vào, tùy theo, nếu thuận tiện thì làm tê liệt cái máy ngầm phòng hờ của thuyền, để họ thấy con thuyền chỉ chạy bằng buồm. Thực ra cái máy công suất rất nhỏ, chỉ đủ sức đẩy thuyền đi từ từ, chầm chậm, phòng hờ khi thuyền không có gió.
Chúng tôi đã nhìn rõ, đây đó có những căn nhà sàn gỗ lợp tôn, nhìn toàn bộ cảnh vật, mọi người vẫn không thể suy đoán ra nước nào phía cực Nam Châu Á? Nhưng chắc chấn không phải là Việt Nam.
Có một đám người lố nhố nhìn ra con thuyền, mấy đứa nhỏ chạy loăng quăng, thoáng trong đám người đó, có hai người mặc quần áo Ka Ki quân đội. Xôn xao, ồn ào, rối rít tiếng Anh, tiếng Việt và một thứ tiếng lạ, đan chéo vào nhau như mạng nhện. Dần dần hiểu ra, họ yêu cầu cử người xuống nói chuyện với họ, khi ấy tiếng Anh của mọi người như cóc ngồi trong hang, thỉnh thoảng thò cổ ra kêu ộc… ..ệch một tiếng lại rụt cổ vào, chắc chỉ có ông trời mới hiểu.
Rất may, trong thuyền giới thiệu một chị tên Châu, cử nhân Anh văn. Chị Châu chừng 30 – 35 tuổi, đã cùng với ba người đàn ông nữa, họ đỡ nhau lội xuống, nước trên đầu gối để lên bờ. Gần hai giờ sau, phái đoàn đi đàm phán trở về thuyền, chúng tôi được biết:
Đây là một hòn đảo NATUNA thuộc Indonesia, cách những đảo chính từ 50 đến 100 hải lý. Dân INDO ở đây chỉ có khoảng hơn 300 người. Đảo trưởng hay chúa đảo, có chừng hai trung đội binh sĩ giữ an ninh. Hơn một năm trước, cũng có một chiếc thuyền Việt Nam tị nạn vào đây, hơn sáu chục người. Họ phải tự túc lương thực, gần hai tháng sau mới đón được tàu rước đi, họ đói khát khổ cực lắm! Dân ở đảo hầu hết là đánh chài lưới. Chúa đảo không muốn nhận người lạ vào đảo nữa.
Có thể do chị Châu là phụ nữ, lại khéo ăn nói, nên chúa đảo chấp nhận, với điều kiện phải tuyệt đối chấp hành luật lệ của đảo và tự túc lương thực. Một số người trong thuyền có vẻ lưỡng lự, muốn ra đi tiếp về những đảo chính. Với tôi, phải đi từng bước, tạm thời ở đây mới có điều kiện liên lạc với Cao Ủy Tị Nạn. Riêng trường hợp của tôi và có thể ở một số người nữa, trong thuyền: Bất cứ nơi đâu, trên trái đất này, không có vòi con Hồng Tuộc đều là “Đất Hứa” cả.
Sau khi, hầu hết đều đồng ý, hãy lên đảo đã rồi chờ liên lạc với cao ủy. Lên đảo, nên phải đếm người. Trẻ con người lớn cả thuyền 53 người. Họ dẫn đoàn người vào giữa đảo rồi tiến vào một căn nhà sàn tương đối rộng cho 53 người. Một vài hiện tượng và hình vẽ ngược xuôi trên vách, chứng tỏ đã có người Việt ở đây và đã rời đi lâu ngày rồi. Già một nửa căn nhà trên mặt nước, tôi bước qua một cái cửa ngó sơ qua cái bếp, một số bà đang lúi húi đun nấu lại những thức ăn đã 6 – 7 ngày.
Bếp lạnh, tro tàn, lại không có củi, họ phải dùng nhữmg giấy gói đồ, nấu, đun lộn xộn. Ngay cạnh cửa sổ bếp, nhìn ra cái hẻm vịnh, thoáng bóng hai cô gái đang ngồi trên một cái bao tải áo quần.
Qua dáng dấp tôi đã biết cái cô trẻ hơn, có làn tóc dài óng mượt là người, ngủ đã gác chân lên ngực tôi. Tôi cũng muốn nhìn xem mặt cô như thế nào? Tôi còn đang loay hoay không biết làm cách nào để thực hiện lòng tò mò cửa mình một cách tự nhiên. Bỗng một bà có đứa con nhỏ, vẫn chơi với con chim “tị nạn”, và đã cho gạo, quay lại thấy tôi; bà hỏi một cách sôi nổi:
- Con chim của anh đâu rồi?
Câu hỏi bất ngờ, làm tôi ngắc ngư, niềm hưng phấn được đặt chân lên đất liền, còn quấn quít, tôi hỏi lại như đùa vui:
- Bà hỏi để làm gì?
Câu hỏi lại của tôi, một giây im lặng, mọi người đều đỏ mặt, chính ngay cái bà hỏi, hai má cũng au lên mầu mận chín. Hai cô gái đều quay lại, mặt cô trẻ hiền lành, thuỳ mị như con Đức Mẹ Đồng Trinh. Cái liếc 17 hơi cau lại lườm tôi, còn vương vãi mấy sợi tơ vàng trong khóe mắt. Hồn thập thò định bay đi, tôi nói một câu giải tỏa, mà không hiểu hết ý:
- Con chim đã bay theo đàn!
Bỗng xôn xao ngoài phía cửa, tôi chạy ra, hai người lính Indo đang khênh vào một bao tải gạo đặt ở giữa nhà. Chị Châu và nhiều người xô đến: ông chúa đảo có nhã ý tặng tám chục ký gạo. Đây là của gia đình ông!
Như một luồng sinh khí cho người suy nhược, cả thuyền vui như đón ngày mồng một Tết. Cả nhà kéo ra cửa, để tiễn hai người Indo, thay cho lời cảm ơn nồng nhiệt. Người lính gác cửa và giữ an ninh, đôi mắt sáng lên long lanh, như chìm vào nỗi hân hoan của con thuyền buồm.
Bác Bang kéo hai thanh niên vào đống đồ từ dưới thuyền chuyển lên, lôi ra hai cái nồi nhôm lớn. Mọi người quyết định, ngay chiều nay sẽ nấu hai nồi cơm, mỗi nồi 10 kg gạo, ăn để bù lại 6 – 7 ngày đói khát thất thường. Những cá nhân, hay gia đình còn chút đồ ăn nào, đều tự nguyện đóng góp. Người thì ít cá khô, người thì chút tôm kho, hay thịt muối v.v…
Một bữa cơm ngay tại sàn nhà, tôi nghĩ rằng khó tìm hay tạo được một bữa cơm, nhiều nghĩa tình, nhiều niềm hưng phấn, như bữa cơm hôm đó, trong tương lai đối với tất cả mọi người trong thuyền. Được biết họ chỉ cung cấp muối ăn, còn gạo, củi, con thuyền buồm tị nạn hãy lo lấy cho mình.
Tuy ngôn ngữ bất đồng, tiếng Anh tiếng U của cả những người lính gác, cũng như trong thuyền như cóc kêu, thỉnh thoảng khọt khẹt một vài tiếng. Chúng tôi cũng hiểu một chút giá sinh hoạt: một lượng vàng 400. 000 Rupias (tiền Indo) 12 đ ở đây ăn 1đ VN, 100 dollars là 80.000 rupias.
Cái mà tôi tò mò, băn khoăn đầu tiên: những cỏ, hoa, cây cối, cảnh vật có khác gì với quê hương của tôi không? Vì thế, ngay từ lúc đi theo hàng, lần lượt vào ngôi nhà sàn, tôi đã sà xuống mé cửa, lấy tay lặt, vuốt mấy ngọn cỏ dại để ngắm nhìn.
Những đám trẻ con, người lớn Indo, kéo đến nhìn chúng tôi. Họ thường có nước da mầu nâu nửa mạc, cũng lếch thếch, lôi thôi như trẻ con Việt Nam thường xử dụng, chân không giầy, dép. Để giải quyết vấn đề quan trọng bậc nhất cho cả con thuyền, mấy thanh niên và đàn ông, lật vài miếng ván phía sát vách của căn nhà sàn, che chắn, tạm một chỗ cho mọi người, nhất là các bà, các cô giải quyết tự do xuống dưới biển.
Cũng đôi lúc tôi không yên lòng, ra vào thỉnh thoảng, lại va chạm vào cái lườm 17 như có điện từ, tôi đã được biết tên cô là Hằng, và người chị là Hoài. Thuộc một gia đình công chức thương gia ngày xưa, quen biết về phía vợ chồng Phạm Lộc+Liên.
Một cái giếng rất to ở giữa một vườn dừa rộng. Dừa Indo thật là nhiều và cao lêu nghêu như những cây phướn ở quê nhà. Nhìn những chùm quả dừa, mầu nâu da bí ngô, mãi tít trên cao lộng gió, như nhìn mây bay ở trên trời. Chiếc giếng cách nhà khoảng 200 mét, hầu hết đàn ông, con trai tắm giặt ban ngày; đêm khuya dành cho đàn bà con gái.
Đến ngày thứ 5 thứ 6 thì hết gạo và thức ăn cũng chẳng còn. Những người có điều kiện gia đình còn cầm cự. Tôi và một số đông các cậu, ruột gan nóng rát vì ngày nào cũng sát muối. Nhìn xuống chỗ đi cầu, dưới làn nước biển trong xanh, những khi thủy triều xuống, lảng vảng có những con cua bể to nhỏ, đến tìm hơi của lạ .
Khó khăn đẻ ra sáng kiến, đó là lẽ sinh tồn của mọi sinh vật. Mấy cậu lần mò, hý hoáy dùng chỉ buộc vào một tép tôm khô, thả xuống. Mấy chú cua tranh nhau tìm của lạ. Các cậu, hò reo kéo con cua lên, nhưng cứ lưng chừng, lại rơi trở lại biển. Thấy thế tôi lấy một cái nón của các bà, thò xuống, một cậu lại kéo con cua lên, tôi lẹ làng hứng lấy trước khi con cua nhả mồi rơi xuống.
Hôm đó, bắt được 5- 6 con, các bà giã nát ra trộn muối rang thành một món ăn, làm mở to mắt, mỗi khi ai được nếm thử.
Tuy đói, tuy thiếu, nhưng nét mặt của mọi người luôn luôn hân hoan, hưng phấn. Điều này đã chứng tỏ hùng hồn: Thà đói, thiếu mà tự do, còn hơn ăn no mà phải làm nô lệ, mất hết mọi quyền tự do.
Sáng hôm nay, tôi và cậu Thiện đi lang thang ra khu vườn dừa. Do tính sục sạo, tò mò thích tìm những cảnh lạ của thiên nhiên, tôi rẽ xuống một cái hũng rậm rạp, toàn dừa non. Thoáng thấy một cây thánh giá đã gẫy cánh trái, bằng một thanh dừa khô , có hàng chữ Nguyễn V . . tôi suy đoán, có thể là Nguyễn Văn . . chẳng có ngày tháng.
Trở về hỏi những người lính gác an ninh, tôi được biết sơ sơ. Chuyến tàu trước, có một ông Việt Nam, đến đây gần một tháng bị té dừa chết, họ đã chôn ở dưới một cái hũng. Tôi hiểu cũng như hiện nay tâm trạng mọi người, hàng trăm thứ lo lắng nhét đầy trong óc, còn tâm hồn đâu nghĩ đến những chuyện không trực tiếp?
Ngày hôm sau, tôi lại rủ Thiện mò đến chỗ cây thánh giá gẫy một lần nữa. Như thể hiện một chút nghĩa tình, của người cùng một nước. Ông hay anh Nguyễn Văn. . . đã bỏ nước, bỏ nhà, bỏ người thân ra đi . . . để rồi đã nằm xuống nơi một hòn đảo hẻo lánh không người biết. Bố mẹ anh, vợ con, người thân của anh có biết không? Hay vẫn tháng năm mòn mỏi đợi chờ, tin tức người ấy trở về? Đau thương nghiệt ngã này do đâu?
Hôm nay những con cua bể, có thể đã khôn ra, hay chỗ đó chỉ có mấy con, mấy giờ đồng hồ mà chỉ câu được có một con. Mấy ngày sau, ông thiếu úy trưởng an ninh, mang lệnh của chúa đảo đến:
- Do sự phản đối của người dân đảo, và sự an ninh:
Từ nay: 11-12- 82 , buổi sáng 2 giờ (từ 8:00 đến l0:00 giờ), nam nữ ra giếng tắm giặt, kiếm củi, sinh hoạt.
Buổi tối 1 giờ, (từ 8:00 đến 9:00 tối): Chỉ dành cho phụ nữ tắm giặt. Toàn thuyền phải chấp hành nghiêm chỉnh.
Từ hai ngày hôm trước, do đóng góp của toàn thuyền, đã nhờ được chúa đảo mua cho một tạ gạo, giá 80.000 Rupias. Tối hôm qua, tôi và cậu Thiện mò mẫm sang mãi phía Đông, chỗ có một chòm xóm, nơi có một cửa hàng tạp hóa duy nhất của đảo.
Cửa hàng vì không có bảng hiệu nên không thể phân biệt với nhà khác bên cạnh. Một căn nhà cửa mở, vào bên trong, giữa nhà có một số kẹo, bánh đựng trong những cái chĩnh sành, một ít khoai tây, rau v.v… để trên một cái sạp gỗ ở giữa nhà. Khách vào xem, chỉ có tôi và cậu Thiện, tôi có nửa cái nhẫn cưới cần gạ bán, để có tiền đóng góp mua gạo.
Rất may, người chủ hiệu có thằng con trai 17 tuổi, học ở một trường trung học bên BRUNEI về nhà, trong dịp nghỉ nửa tháng, cậu này cũng bập bẹ tiếng Anh bằng tôi. Lúc đầu phải ngoáy tay, nhắc đi nhắc lại một chữ nhiều lần, nhưng dần dần đã hiểu nhau.
Nói về tiếng Anh, tiếng U của tôi, nó cũng nổi trôi với cuộc đời của tôi nhiều chặng. Tôi nhớ khoảng 1957- 59, do từ người bạn Nguyễn Vĩnh Lý, tôi đã chơi bạn bè Pen- Pal Corresponding địa chỉ cái Club này ở Đan Mạch. Vì vậy, tôi đã có mấy người bạn ở Mỹ, Nhật, Anh.
Khi đó thì tôi miệt mài say mê, với thư từ chữ nghĩa, chứ chưa hề nói chuyện với một người Anh, người Mỹ nào. Mãi tới đầu 1960 do những kéo, đẩy của nghề nghiệp, tôi phải tiếp xúc với Brown, Dale, và Horry v.v. . . Rồi bị tuột tay, chìm nghỉm vào miệng con Hồng Tuộc.
Tôi tự xác định, không chết sớm thì cũng chết muộn, ở trong mồm của nó. Nên suốt 20 năm tôi đã buông rơi, nếu không nói là giũ, vẩy, gần sạch cái thứ “tiếng lai căng”, không phải của cha mẹ đẻ, cho nó nhẹ người. Cho nên, nếu còn sót tí nào, là nó bị kẹt, bị vướng lại, khi tôi giũ mà thôi. Tôi đâu có nghĩ có ngày tôi lại phải đi bòn mót, nhặt nhạnh nó trở lại để sinh tồn?
Cuối cùng tôi đã bán nửa cái nhẫn, được 20.000 Rupias. Một điều đã gây một ấn tượng hằn sâu, vào ký ức của tôi. Cũng buổi tối ấy, tôi đã đờ đẫn nhìn những hình ảnh trong chiếc ti vi mầu. Từ xưa suốt ở Sài Gòn, rồi tù đày ở miền Bắc, tôi chỉ nhìn hình ảnh trắng đen của truyền hình.
Tôi không thể tưởng tượng được, con người và cảnh vật ở ti vi mầu nó lại tươi đẹp, đến như vậy. Nhìn hình ảnh của ông tổng thống Shoharto, và đoàn tùy tùng của Nam Dương đẹp như những ông bà tiên, trong tưởng tượng. Tôi đứng ngây ngất ngắm nhìn Ti vi, tôi chẳng hiểu họ nói gì, tôi chỉ ngắm con người và cảnh vật, xe cộ của thành phố Jakarta.
Đầu óc tôi miên man nhớ lại trước thập niên 1970, tình hữu nghị của Hồ Chí Minh với Shokamo sôi nổi gắn bó. Đài Hà Nội khi ấy, ra rả ngày đêm ca ngợi Shokamo như một vị anh hùng, của những nước trung lập không liên kết. Tưởng như Mao Trạch Đông sẽ nhuộm đỏ Nam Dương đến nơi, không ngờ tướng Shoharto bất ngờ đem quân đội đè bẹp, tận diệt đám Tàu Cộng ở Nam Dương, mở ra nước Cộng Hòa như ngày nay.
Cả ngày hôm qua, 4- 5 cậu mà chỉ câu được có hai con cua. Năm mươi ba người hầu như chỉ còn muối, mà không có hơi cua. Tính sục sạo thích làm những việc ít hay chưa ai làm, đã thúc giục tôi. Tôi lách rồi chui xuống sàn, dùng tay để bắt những con cua có kinh nghiệm, đưa mồi đến miệng nhưng nhất định nó không cắn nữa.
Thủy triều càng cạn dần, tôi bảo các cậu buộc dây thả xuống cho tôi một cái thùng 20 lít vẫn đựng gạo. Say sưa mải mê, săn tìm những con cua trong những hốc đá, hay trong hang lỗ chỉ còn từng vụng nước nhỏ, nước chỉ tới đầu gối. Hơn hai giờ sau, tôi đã xách thùng về với hơn hai chục con cua, có những con to cả kí lô. Hẳn ai cũng biết cua bể của Thái Bình Dương, khác hẳn với cua bể Đại Tây Dương.
Cua Thái Bình Dương mầu xám xanh, hai gọng cái to và nhọn hoắt, rất nhanh và dữ. Chính những người lính Indo, cũng không tin ai dám dùng tay, để bắt những con cua bể ở dưới nước hay trong hang? Nhiều người lính Indo đã đi theo tôi, để nhìn tận mắt, và vì vậy, mỗi ngày khi nước thủy triều xuống, họ chỉ cho tôi và cậu Thiện xách thùng đi theo, được ra ngoài.
Dù tôi cũng có một chút kinh nghiệm, nhưng những con cua bể quá nhanh, quá dữ nên tay tôi cũng bị nhiều lần ra máu. Một lần tôi vẫn còn nhớ chi tiết: Một chiếc thuyền vỡ, cũ đã chìm ở một ven bờ, nước thủy triều xuống chỉ còn xăm xắp dưới đáy. Tôi biết bên dưới sẽ có nhiều hang cua, nước còn đến gần đầu gối. Tôi cúi xuống, luồn tay vào một cái hang, một con chộp cắp, vào hai ngón giữa và đeo nhẫn. Khi nó đã cắp, tay mà nhúc nhích nó càng nghiến chặt hơn, vậy chỉ còn cách chịu trận đứng yên rồi nghe, chờ thấy nó hơi nhẹ nghiến (vì nó cũng mỏi) giật mạnh tay ra. Nhưng con cua này, không biết to bao nhiêu, nó cắp tay trái của tôi rồi, lại cứ lôi sâu vào trong hang.
Người tôi thì cúi, hai chân chịu trận hàng mười phút, con cua lại cứ lôi tay tôi vào tiếp. Lưng mỏi, tay đau, lại không được nhúc nhích, tôi nổi máu liều, tay phải tôi xục xuống đất cát, lựa thọc vào phía trong hang, rồi xục tay lên. Mục đích để chặn không cho con cua kéo tay tôi, vào thêm nữa. Không ngờ, có một con khác, không hiểu vợ hay chồng của con đang cắp tay trái, nó cắp ngay ngón trỏ và ngón cái, tay phải vừa đau, hai chân mỏi quá, tôi phải khuỵu quỳ xuống nước. Hai tay chịu trận hai con cua cắp, mặt tôi cố ngửng lên để mũi không gục xuống nước.
Biết cậu Thiện đứng ở trên bờ, nhưng không ai cứu được tôi lúc này cả. Vả lại, cậu Thiện hay ai dám thò tay vào với cua bể? Tôi đã nhìn thấy máu loang ra nước nhưng vẫn phải cắn răng, không dám động đậy.
Hơn hai chục phút, tôi nghe ngóng con tay trái cắp mãi, chắc cũng đã mỏi, nó lơi lỏng, tôi giật mạnh tay ra. Lấy tay ra khỏi nước, mà máu vẫn rỉ chảy có giọt. Con tay phải hơi nhẹ nghiến tôi lại giật được ra, nhìn hai tay đều bị chảy máu, nhưng lòng tôi khó chịu lắm. Hai tay bị thương, mà hai con cua vẫn không bắt được Cậu Thiện ái ngại nhìn tôi, cản lại:
- Thôi anh ơi? Đi bắt con khác?
Tôi nhìn thoáng thấy một thanh gỗ con mục, dài đến 50 phân, tôi chạy đến, cởi phăng cái áo của tôi, dùng thanh gỗ giấn, chẹt lấy phía cuối hang cua. Áo cuốn tay, thò vào, sau vài phút, tôi đã lôi được cả hai con cua chồng vợ vào thùng. Hai con cua đang thời kỳ sung mãn, mẩy chắc nịch, mầu đất sét.
Khi về nhà cả thuyền vây đến coi. Giữa sàn, tôi bắt hai vợ chồng con cua, ra ngoài trình diện. Mấy cậu thanh niên đi ba ta, đi dép, lấy chân định đè nó xuống sàn, nhưng nó nhanh như cắt, đã chộp lấy dép, lấy ba ta, làm các cậu giật hất tung cả giầy, dép ra sàn. Các cậu và nhiều người, không nghĩ là nó dữ và nhanh, như thế. Đấy là ở trên bờ, khi nó đã bị bắt, chứ dưới nước như hổ ở trong rừng, là đất của nó, nó còn hống hách làm tàng, đến độ thế nào.
Các bà, các cô và trẻ con chạy vón, dạt vào sát vách. Một cái tay phía sau để nhẹ vào vai tôi:
- Bình bạo gan thật!
À ! Ra anh Trường!
Không ngờ có anh Trường trong thuyền, hôm nay tôi mới gặp. Tôi quay lại cầm tay anh vồn vã:
- Bạo gan làm sao bằng anh được? Có chị và các cháu không?
Mặt anh buồn rười rượi, lắc đầu, chúng tôi đã kéo nhau ra phía sau hàn huyên nỗi niềm. Đầu tôi luẩn quẩn một ý nghĩ xanh mầu trời:
Một người đã lách ra khỏi bùa mê, thuốc lú, độc dược, của con Hồng Tuộc.
Hai tay của tôi máu vẫn còn rỉ ra, các bà đưa ra một sáng kiến, sẽ khâu cho tôi một cái túi tay, bằng vải dầy, đôi tay của tôi đã bị nhiều vết sứt sẹo do cua cắp. Có thể do máu của tôi lành, phần khác nước biển mặn, diệt trùng nên chỉ một vài ngày là khỏi.
Dù chưa khỏi sưng, khỏi đau, ngày nào nước thủy triều xuống tôi vẫn đi bắt cua. Tự nhiên tôi trở thành một người giải quyết thức ăn cho cả con thuyền. Nhiều cậu, nhiều bà thường đùa vui gọi tôi là ”vua cua ” rồi trở thành cái tên ở trong thuyền. Các bà, các cô làm đủ mọi kiểu: Rang muối, luộc, nướng, cắt ra từng miếng đập dập v.v… Lúc đầu còn háo hức, dần dần mọi người phát sợ, ngấy lên vì cua. Sáng ăn cua, chiều cua, hôm sau lại vẫn cua, nhất là tôi mới phát hiện ra một cái mánh bắt cua bể.

47. ĐẤT NƯỚC VẠN DỪA

Một buổi, như mọi khi tôi và Thiện ra mãi vùmg xa, cách nhà đến một cây số. Một ven biển dài khi thủy triều xuống, lè ra bao nhiêu bãi đất cát. Chăm chú, tôi chợt nhìn thấy như con ruồi trâu, nhúc nhích trên cát và đất. Tôi vẫy tay cho Thiện cùng ngồi xuống, yên lặng. Rõ ràng con ruồi nhồ lên, rồi lại chui xuống cát, tôi từ từ tiến đến, và bà con ơi ! Là hai cái mắt của một con cua bể kềnh.
Chúng tôi chỉ cần ngồi im, quan sát, sẽ thấy những cái mắt cứ thò lên nhìn, rồi lại cụp xuống. Tôi chỉ việc lẹ làng bới cát, là một chú cua nằm đấy, căng phồng, vàng óng như lụa Hà Đông. Tôi suy đoán, những con cua này, vừa khôn lại vừa lười, nước triều xuống, việc gì phải chạy theo nước, rồi lại phải trở lại theo nước?
Tại sao, chỉ cần bới cát rồi đằm mình xuống đấy, vừa được nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng mơ màng, chỉ một lúc là nước lại lên như cũ, bấy giờ chỉ cần lách ra kiếm ăn như thường. Như thế, cái tốt, cái lợi chẳng phải lúc nào cũng dành cho cua khôn, cua lười!
Một việc chiều hôm qua, vẫn còn vấn vít hồn tôi cho đến bây giờ. Tôi ngồi ngoài một cái chái hồi phía sau cửa nhà bếp, tay mân mê xoa nắn ngón tay, vì hôm qua một con cua kẹp khá lâu hãy còn sưng tím. Cô Hoài, cô Hằng cùng với một cậu bé chừng 10,11 tuổi mặc quần đùi, ngập ngừng đến trước mặt. Cô Hằng giơ ra hai cái túi con, mầu lá mạ xinh xinh, mặt cô hồng lên như mới tăng thêm máu, giọng rụt rè:
- Chú … mang thử… có vừa không?
Bàng hoàng, tôi lúng túng ra mặt, mãi tôi quýnh quáng chưa xỏ buộc được. Cô Hằng đã ngồi xuống xỏ vào tay tôi. Nhìn đôi bàn tay “ngó cần”, mó máy, ngọ nguậy trước mặt, hồn tôi cứ thập thò định lỉnh ra ngoài.
Chẳng muốn, nhưng hình như, tôi cũng bị bơm máu lên, mặt tôi nóng bừng bừng. Cô đã thấy tay tôi run run, nên cô nhìn thẳng vào mắt tôi như đóng đinh, tay cô bóp nhẹ ngón tay trỏ của tôi. Tôi ngửng nhìn, hãy còn những hạt phấn vàng óng ánh vương vãi phía đuôi con mắt của cô.
Tôi không tìm được một lời nào để nói, nên tôi càng như đang bay trong mây, để rồi cả ba người đã kéo nhau đi, mà tôi vẫn ngồi yên. Tôi chợt, định với theo để cảm ơn, nhưng họ đã vào trong nhà rồi. Trở lại chỗ ngồi, khe khẽ, nhè nhẹ, tôi tụt hai cái túi ra gấp lại.
Hai cái túi như được hấp, được giầm trong làn hơi đặc quánh của búp sen 17, nó còn ngạt ngào, quyện quấn chung quanh. Tôi cứ ngồi bần thần để nghe tiếng đời xua động, và tiếng kẽo kẹt, của võng lòng đu đưa, thì em Hoa lù lù, một tay bế con gái Mai Lynh, một tay dắt mẹ tôi, tiến đến.
Như vỡ toang một giấc mộng ngày, tôi đứng lên, chậm chạp đi vào nhà, để rủ cậu Thiện đi làm nhiệm vụ cho cả thuyền.
Tôi với cậu Thiện vừa ra đến mom đảo, nghe nhiều tiếng kêu quen thuộc khu… oách, khu… oách. Một đàn hải âu, cánh vàng ửng dưới ánh chiều đại dương, chúng chao đảo, ngang dọc trên cái nền xanh “ái ân” của bầu trời. Cảm thấy khác thường với mọi khi, tôi ngửng lên cố tìm người bạn quen thuộc ngày ấy, nhưng đành chịu, con nào cũng như con nào. Một thoáng vấn vương trong lòng: Đã hơn một tháng rồi, chẳng biết con chim “tị nạn” bây giờ ở đâu? Nó có bạn mới chưa? Cuộc sống đã ổn định và gặp may mắn không? Tôi cứ đi trong huyễn tưởng, bất chợt giọng cậu Thiện đã giật tôi trở về:
- Anh Bình! Con chim của anh kìa?
Tay cậu đang chỉ về phía sát mí nước, sáu con hải âu, đang đứng như xếp hàng nhìn về phía chúng tôi, rõ ràng có con ” tị nạn ” thật! Làm sao tôi quên được vệt cháy xạm đen, trên cánh của nó.
Tôi đã bỏ cậu Thiện, để tiến đến đàn chim. Chúng nó như không biết sợ người, tôi ngồi hẳn xuống, năm con hơi giãn ra, nhưng con ” tị nạn ” vẫn đứng yên ngắc ngư cái mỏ, nhìn tôi. Không kìm được lòng, tôi ôm lấy con chim, nó mập và lông óng hẳn ra, đôi mắt mầu vàng bây giờ như có viền một chút mầu xanh tương lai.
Hai tay tôi ôm, ủ con “tị nạn” vào lòng, tôi đưa hẳn nó lên gần mắt, để nhìn cho rõ cái mặt và cái mắt đầy thoải mái, nhàn du, nhởn nhơ của nó. Tôi lại muốn hỏi nó:
- Mày là con trai hay con gái!
- Mày đã có bồ chưa?
Cũng như lần đầu gặp nó, tôi đành chịu và tự suy đoán. Điều chắc chắn tôi nhận thấy, là bây giờ nó đẹp và tươi hơn khi cứu nó trên ngọn cây cột buồm, trong một trận giận khùng của biển khơi. Tôi tự hiểu mỗi người, kể cả chim đều phải có trách nhiệm với cuộc sống của mình. Tôi phải đi với cậu Thiện để lo cho thuyền, và hẳn con tị nạn cũng phải giải quyết thích ứng với bạn bè của nó. Tôi mừng vui vì con chim có cuộc sống như ngày nay, có một phần nhỏ, góp công sức của mình.
Tôi đã đưa con chim lại chỗ đàn chim, để xuống bãi cát, tôi trở lại kéo tay Thiện xuống một cái hẻm, có nhiều hang cua. Trên trời vẫn những tiếng khu… oách…, khu… oách… níu chặt vào gió mặn, của đại dương.
Thật là hưng phấn cho cả con thuyền, tin của chúa đảo cho hay:
“Cao Ủy tị nạn sẵn sàng đón nhận đồng bào đến Kuku, nhưng Cao Ủy không có phương tiện đón. Do đó trong thuyền tự đóng góp sao có 160. 000 Rupias, tương đương với 200 dollars giai đoạn ấy”.
Do tinh thần đùm bọc truyền thống của dân tộc, người có hoàn cảnh, người không. Người nhiều, người ít đều đóng góp, đã đủ số ngân khoản, mà chúa đảo yêu cầu.
Trong những ngày chờ đợi thuê tàu, cậu Sinh, một cậu chừng 24- 25 tuổi ở ngay vùng Chu Hải. Cậu cũng từng vật lộn nhiều với núi đồi, biển cả của Vũng Tàu, hôm nay cậu trổ tài leo lên một cây dừa cao ngất, hái về hàng mấy chùm dừa tươi. Tôi chợt nhớ đến anh Nguyễn Văn . . đã nằm lại đảo vì trèo dừa. Tôi đi theo sát cậu Sinh, để lượng định những điều có thể.
Cũng thật là thiên phú, đôi chân của cậu như một con vượn, thoăn thoắt leo tít lên mãi trên mây, cả tàu không ai làm được, mà ngay người Indo cũng lắc đầu, mở to mắt mà nhìn. Thành ra gần ngày đi, thức ăn đã có dừa kho, dừa ăn vã. Cái điều tôi băn khoăn là, tại sao từ hàng tháng trước, thức ăn chỉ có muối, Sinh không đi hái dừa cho bà con? Một hôm, tôi lựa lời hỏi thẳng, thì Sinh đã cười như ngỗng đòi ăn:
- Cua biển ăn mới ngon, dừa chỉ chống đói! Vả lại khi ấy, em hay bị đau bụng!
8:00 giờ sáng mai, 21-01-1983 tất cả thuyền sẽ ra tàu về đảo Kuku, một điểm đón nhận người tị nạn của những năm đó. Mới 6 giờ tôi đã dậy, ra ngoài làm vài động tác hít thở, tôi vẫn duy trì từ ngày còn ở trong tù. Nhìn những miếng giấy vụn, manh chiếu rách, miếng giẻ đã hết thời, vất, ném đây đó. Tôi vào gặp bác Bang, anh Nghĩa và cả Phạm Lộc, tôi đề nghị:
- Để thể hiện lòng tự trọng dân tộc, chúng ta hãy hô hào bà con mỗi người một tay hãy dọn sạch sẽ khu vực chúng ta đã ăn ở hơn một tháng nay. Nếu không làm được sạch, đẹp, gọn ghẽ hơn, thì phải làm như khi chúng ta mới đến căn nhà này.
Bác Bang và tất cả đều đồng ý, bác hô hào bà con, và chính bác cũng đi nhặt từng cọng rác. Chỉ một giờ sau, căn nhà sàn rộng nhớp nhúa, bừa bộn đã sạch sẽ gọn gàng. Dù người khó tính nhất, cũng phải nở nụ cười.
Mọi người đã ôm đồm, bế bồng con cái ra xếp hàng dài phía trước cửa. Anh Nghĩa, chị Châu và Phạm Lộc dẫn đầu ra, về phía cầu tàu Trong lúc tôi đang lúi húi vơ vài chiếc quần áo cũ và mấy thứ lặt vặt, cho vào chiếc tay nải đã rách, thủng vài lỗ, cô Hằng lẹ đặt một cái túi xách bằng nhựa mầu xương rồng, trước mặt tôi. Mắt cô nhìn tôi như muốn “photocopy”, miệng ngập ngừng, khe khẽ:
- Chú… dùng đi!
Nói rồi, cô vội vàng lách vào trong góc nhà, tôi cũng chẳng cảm ơn được, như khi cô đưa hai chiếc túi tay. Không nói được lời nào nên đã gói lại, dồn sâu vào mãi trong cùng, chỗ trân quý nhất của tôi.
Chiếc tàu nhỏ mầu cánh cam đang nhấp nhô, thở khò khè ngoài bến bãi. Từ xa, tôi đã nhìn thấy ông chủ đảo và mấy người lính bên cạnh chiếc tàu. Phải nói là canot thì đúng hơn, nó chỉ nhỉnh hơn chiếc thuyền buồm của chúng tôi một ít.
Một đám người dân Indo quanh vùng, cả mấy đứa nhỏ, cũng ra tiễn hay tò mò, nhìn đám người bất hạnh, đã đánh mất quê hương? Ông chủ đảo đã vồn vã bắt tay từng người, cả những đứa nhỏ tí còn bế trên tay. Chúng tôi xin cảm tạ những người dân Indo anh em, các người đã dậy cho chúng tôi thế nào là tình nhân loại. Con tàu đã rời bến, nhìn về hòn đảo Natuna hiền hòa, như một dấu ấn khắc ghi, vào tâm hồn một đời, cho những ai lỡ đường ghé đến.
Hàng chục con hải âu trắng toát, vùng vẫy trong gió lộng, với những tiếng khu … oách , khu … oách , khu… oách, quyện vào tiếng sóng gào. Tôi cố dõi mắt nhìn từng con như muốn tìm, như băn khoăn thấp thỏm, vương vấn hồn vào đám mây trời trên cao. Mọi người đã xuống hết dưới khoang tàu, tôi vẫn còn ngồi phía sau chòi hoa tiêu, rõi nhìn hòn đảo Natuna mờ dần.
Tàu rời bến chừng mươi phút, rõ ràng, lẫn vào lớp sóng bạc đầu có hai chấm vàng sậm, rõ dần là hai con Hải Âu. Tôi đến ngỡ ngàng, mỗi con sà đến đậu vào một bên vai của tôi, cánh nó khỏa đập cả vào tai, vào đầu tôi. Ối giời ơi! Con ”tị nạn” chiếc cánh bị cháy xém đã mờ, nó vừa thở vừa nhìn tôi, cái mỏ cứ cắp vào tai tôi như trách… Sao đi mà không cho nó biết ! Hay như xin lỗi… nó đến chậm? Tôi tự suy đoán. Còn con kia, đôi mắt hiền như bồ câu, hay sáo đá, có vẻ e ấp như một cô gái, lông má đã nhú dài.
Như vậy, đã cho tôi hiểu con chim ”tị nạn” là một anh chàng. Vậy cái con ở lại Chu Hải Việt Nam là bồ hay là vợ? Tại sao không cùng đi oversea với chồng? Do con ”tị nạn” đẩy lại, phải về nhà với con, hay cô ả ”nhát” ở lại, hoặc lưỡng lự hai lòng?
Con ”tị nạn  cắn mạnh vào tai tôi, rồi bay lên cùng với con kia. Hai con lượn một vòng quanh chiếc tàu, rồi sải cánh chui vào mây trời với những tiếng khu… oách, khu… oách rớt lại.
Thoáng một bóng người, trong phòng hoa tiêu lách ra, cao lớn mầu da bánh mật, chừng 4 chục. Y nói líu ríu cái gì nghe như : Khoét … loét … choét… Tôi chẳng hiểu gì cả . Chắc ông ta đã thấy nét mặt của tôi… nên ông ta cũng là con cóc cố kêu được mấy tiếng : I am… very…surprised! Với đôi mất mở to nhiều lòng trắng. Tôi giơ tay ” shake hand ” rồi lí nhí kêu : Thank…You ! Tôi mỉm cười với ông ta . Vội vàng tôi cũng mò xuống dưới khoang.
Chừng 4 giờ sau, tàu ghé bến Kuku. Nhìn ngay bến tàu, vóc dáng nhà cửa, tôi đã hiểu Kuku là một hòn đảo lớn hơn nhiều lần Natuna, thậm chí còn thấy xe đạp, mô tô chạy qua lại. Một số người lố nhố ở cửa bến tàu, lẫn mũ Kê-pi mầu đen trắng, với mũ mầu chiến trường.
Chúng tôi phải đi lên đảo hàng một, để họ điểm người.
Cũng chị Châu, anh Nghĩa và Phạm Lộc dẫn đầu để giao tế. Đoàn người rẽ phía phải vào một căn nhà, mọi người lần lượt đến một bàn giấy có 3 người Indo để khai tên tuổi.
Tôi nhìn hai bên cửa, có hai tấm bảng to phủ lưới thép, trong bảng có nhiều loại giấy tờ:
- Giấy chứng minh nhân dân.
- Giấy khai sinh.
- Giấy bệnh viện chợ Rẫy.
- Giấy thông hành.
- Giấy có những tấm hình v.v. . .
Trên bảng có ghi chữ to, bằng phấn trắng:
”Nếu ai biết những người có giấy tờ này, hãy báo tin cho gia đình, họ đã chết ở biển Indo “
Tôi đọc thoáng có những cô gái 20 tuổi ở đường Cô Giang Sài Gòn, một ông 40 tuổi ở Bến Tre, một bà 35 tuổi ở đường Lê Văn Duyệt Cầu Bông. Nhìn đọc những giấy tờ, lòng tôi trĩu nặng đầy vơi về kiếp người, về nỗi ai oán thương đau của dân tộc. Gia đình thân nhân có biết rằng những người này, chạy trốn cái vòi hút máu của con Hồng Tuộc, đi tìm tự do, nhưng đã không may chìm vào lòng biển cả, trong những trận bão hay cướp biển hãi hùng?
Đàn ông con trai vào một buồng, đàn bà con gái vào một buồng, được lệnh phải cởi hết quần áo, xếp hàng lần lượt đi qua một bàn giấy.
Phía đàn ông chúng tôi, có người ngượng ngùng chưa cởi những quần si- líp. Nhưng rồi mọi người đều phải cởi hết, có một tên Indo mặc áo blouse trắng, bắt chổng mông, nắn chim khám xét Tôi không biết phía bên phụ nữ đàn ông hay đàn bà khám?
Thôi thì những người mất quê hương, phải gánh chịu những niềm tủi nhục này, mỗi người mặc lại áo quần. Sau đấy tất cả được dồn vào một buồng rộng, lần lượt đến một bàn giấy rộng, có mấy người mũi lõ, mắt xanh để khai báo lý lịch, thân thế với đại diện Cao Ủy Tị Nạn.
Tôi nhớ đến lượt tôi, khi họ hỏi anh bị đi cải tạo mấy năm? Tôi nói bị tù 18 năm, cái ông Cao Ủy quắc mắt hỏi lại:
- Tại sao lại là “eight”?
Theo họ, người tù nhiều nhất khi đó cũng chỉ 7 năm, từ 1975-1982, tại sao tôi lại 8? Tôi đã trả lời:
- Không phải eight mà là eighteen!
Cả ba, bốn người đều mở to mắt, kể cả chị Châu ngồi đấy thông dịch cũng ngạc nhiên, để rồi tôi thành cái tên “ông tù 18 năm” độc nhất thời gian ấy, ở Indo.
Xong hết, chúng tôi được dẫn đến một khu có hàng rào thép gai, cách đấy 300 mét, trong này có hai căn nhà gỗ lợp tôn to, họ gọi là barrack. Trong barrack có những sàn gỗ, một vài vết tích, tôi đã hiểu trước đây có những đợt người vượt biên ở rồi. Đặc biệt bên cạnh có một nhà thờ con nho nhỏ, bụi bám đã lâu ngày.
Tôi và cậu Thiện đã kiếm được cái chổi cùn, quét dọn sơ sơ, cậu cũng theo đạo Thiên Chúa, nên chúng tôi đã quỳ gối cảm tạ Chúa, chúng tôi đã đến nơi này an toàn. Không ngờ, cũng có nhiều người khác trong tàu, vào quỳ dưới cây thánh giá, cả gia đình bác Bang, cậu Sinh, một số ông già, bà cả. Tôi rủ cậu Thiện ra ngoài lang thang đến một hẻm đồi, có cây thánh giá to, nơi đây có 7 ngôi mộ cỏ dại, lá khô đã phủ dầy. Hai cây thánh giá con thứt thẹo, ghi tên người Việt. Như vậy hẳn đây là những người bất hạnh, nhưng vẫn còn một chút thỏa lòng, được gửi xác trên mảnh đất tự do, ngoài nanh vuốt của con Hồng Tuộc.
Tôi và cậu Thiện đã cúi đầu, như chào, ngậm ngùi cảm thông với các vị nằm trong mộ. Thoáng có bóng người, làm cho tôi đến đờ đẫn bàng hoàng. Cô Hằng và cậu bé, cô thường dắt theo. Nét mặt hiền dịu “con Đức Mẹ” lấp loáng trong làn tóc huyền giẫy giọn, với gió chiều Kuku, đã làm cho nơi vắng lặng khô cằn, đìu hiu này, như nở một nụ cười rạng rỡ hẳn ra. Tôi đã đến bên xoa đầu em nhỏ, nói nhè nhẹ, như hỏi:
- Cô Hằng … cũng là công giáo?
Mặt cô lại tăng máu, cứ au lên, lí nhí:
- . . Cháu ….. không phải!
Ý tôi định cảm ơn cô, đã cho tôi túi xách và đôi túi tay, nhưng lại nói ra ý khác:
- Cảm ơn…Hằng … .đã đến thăm viếng… những người bất hạnh!
Môi cô như mím lại, dẹp ra, mắt hơi cau lại nhìn tôi, như muốn “ăn”, làm cho hai tay tôi như quờ quạng giơ lên, đẩy ra. Tôi đã kéo tay cậu Thiện lủi vội ra về. Cô Hằng và cậu nhỏ cũng theo ra. Có lẽ cô chẳng yên lòng đứng lại nơi cô tịch, với những người đã nằm yên?
Ngay chiều tối hôm ấy, dưới ánh trăng 18 của Kuku, tôi kéo vợ chồng Phạm Lộc ra chiếc cầu gỗ phía sau barrack. Ngồi nhìn chị Hằng Nga nhấp nháy, trong nước triều dâng mấp mé, tôi đã trang trọng nói với, cả hai vợ chồng Lộc:
- Dưới mặt trăng và trên chị Hằng (một chị Hằng dưới nước), tôi xin cúi đầu biết ơn Lộc + Liên, lời của một người tự trọng hàm ơn. Khi đến nước thứ ba, tôi sẽ nỗ lực với trí óc và đôi bàn tay, bằng mọi cách tôi sẽ thanh toán 3 cây vàng ân tình, ưu tiên hàng đầu trong cuộc sống.
Cả hai vợ chồng đều cười rộ:
- Chúng em đã đòi đâu? Còn 6, 7 người nữa ở trong thuyền, nhưng anh là người nói đầu tiên, chúng em vui lòng rồi?
Khoảng 5 ngày sau, một đêm tôi đang mê mệt trong giấc ngủ nhiều mầu xanh dương, tôi giật mình thức giấc. Tiếng gào, tiếng rú của gió Kuku, xa xa nghe tiếng biển, sôi lên ùng ục. Gió réo vào mái, vào vách, mưa như đổ nước, căn barrack rung lên như động đất. Chiếc thuyền 61 người tối hôm qua ghé đến Kuku, đang ở banack bên cạnh. Mấy ông bà chạy túa ra cửa nhìn nhớn nhác.
Barrack bên này cũng nhốn nháo dậy cả, dưới ngọn đèn 100 watts của cả khu, hai bên nhìn nhau bằng những đôi mắt chẳng có lòng đen. Chẳng ai nói một lời, nhưng hẳn tự thầm suýt soa nổi da gà: ” Nếu thuyền mình còn ở ngoài khơi, chắc chẳng còn nhìn nhau bằng những đôi mắt thất thần ?”. Gió hung hãn xoáy rồn rột như cây đổ, đá rơi.
Sáng sớm hôm sau, tin tức còn tối đất, do phòng kiểm thính Kuku, có một chiếc tàu chở 106 người đã chìm xuống đáy biển bên phải đảo Binkulu, cách Kuku 16 hải lý.
Xin cảm ơn những tâm hồn “đứng thẳng” của các vị Cao Ủy ở Indo. Mới tờ mờ sáng, một chiếc tàu của Cao Ủy với dáng dấp của mấy vị đã xét hỏi tôi mấy ngày trước, họ đã rẽ sóng tiến về Binkulu, may ra còn cứu vớt được người nào. Cả hai con thuyền 53 người và 61 người đều ra mé biển, ngóng về hướng con tàu đắm, cầu xin trời Phật hãy cứu giúp những kẻ khốn cùng.
Mãi gần buổi chiều, con tàu Cao Ủy mới trở lại, tôi làm sao quên được cái hình ảnh một đời. Cái ông Cao Ủy bụng to, bước lên bờ đầu tiên, tên ông là Bob người Canada, người đã đếm đốt ngón tay cười với tôi, khi biết tôi tù 18 năm: ” Như thế cả tuổi trẻ của anh trong nhà tù? “.
Ông Bob hai tay cầm hai cái que gỗ dài, mỗi que xọc đeo hơn chục chiếc dép, guốc xanh đỏ, cả dép Thái Lan. Theo ông, tàu Cao Ủy đã cố công tìm kiếm phía sau đảo san hô Binkulu. Chỉ có hơn một chục xác chết đàn ông, đàn bà, con gái trẻ con dạt vào bãi, vài chục chiếc dép guốc rải rác đó đây, còn tất cả, cả con tàu đều biến mất, chỉ còn nước với trời.
Điều đặc biệt, tàu đã kiếm được một người duy nhất còn sống, anh ta nằm rúc đầu vào một tảng san hô. Khi lôi ra thì tim anh còn đập, nhưng không hề biết một điều gì, trong giấy tờ tên là Lý Minh, người Việt, gốc Tàu 34 tuổi. Cao Ủy đã đưa trước về phía bên kia Kuku, có bệnh xá.
Do tính sục sạo tò mò, ba ngày sau, tôi đã rủ cậu Thiện đi bộ hơn ba cây số, đến tận bệnh xá, để nhìn cái người duy nhất còn lại, của một chuyến tàu định mệnh 106 người. Sau một lúc tìm tòi thăm hỏi, chúng tôi đã đến chỗ giường nằm của cậu Lý Minh, mặt và mắt của cậu trắng bệch như không còn máu. Có thể quá hãi hùng nổi chìm trong nước, trong những cơn sóng thần sầu, để rồi thần biển đã nhét đầu cậu vào một tảng san hô.
Cả 106 người, chỉ còn một mình cậu sống sót, nhưng hồn vía cũng chẳng còn. Không biết bố mẹ cậu, vợ con cậu, anh chị em của cậu, có cùng đi chuyến tàu xóa sổ này không? Có chăng chỉ xin hỏi ông trời, nỗi uất nghẹn thương đau này vì đâu?
Tôi vừa về tới barrack thì cậu bé đã đến bên, ghé tai:
- Chú ơi! Chị Hằng mời chú, ra phố uống nước!
Ngạc nhiên, đắn đo, nhưng những chuyện khác thường vẫn có sức lôi cuốn lòng tôi, nghĩ thế tôi đã gật đầu với cậu bé. Cậu bé về một lúc, Hằng và cậu bé đi ra phố, tôi để cho Hằng đi một quãng, tôi đi theo.
Cô Hằng như có mắt phía sau, cô đi vòng đến gần một đồn cảnh sát, nơi có một số nhà, mấy cửa hiệu tạp hóa. Đặc biệt chỉ có một tiệm bán đồ giải khát, thấy cô và cậu bé ngồi mãi một cái bàn phía trong, tôi cứ tiến vào. Trước mặt cô và cậu bé, mỗi người có một lon Coca với cái ly, một lon và một ly để đối diện, cô đã giơ tay mời tôi ngồi.
Thực sự, tôi cũng chưa bao giờ nhìn thấy Coca, chứ đừng nói là thưởng thức, tôi cũng nói thực, tôi chưa hề uống cái loại này. Cô vừa mở, vừa rót vào ly cho tôi và cũng chân thành:
- Hằng… cũng mới uống một lần ở …. Sài Gòn !
Hôm nay Hằng lại xưng tên, tôi cũng ngập ngừng nhìn vào đôi mắt nhiều điện từ, hỏi thẳng:
- Làm sao … tôi được ngồi đây … hôm nay?
Hằng nhìn ra một khung trời, ngoài cửa sổ:
- Để mừng … chúng ta còn sống … và cảm tạ đất trời !
Tôi vẫn không rời đôi mắt, nhiều điện thế:
- Rồi sẽ đi … .một con đường thật dài !
Hằng đã biết ý lấp lửng, nên cằm cô hơi ưỡn ra một cái, một tí lưởi đỏ lè ra giữa cặp môi mím, giống hệt một nụ đào đầu xuân bất đầu hé. Tôi quờ quạng, vớ vào ly Coca đưa lên miệng, như muốn đè bớt nguồn rạo rực bốc lên hừng hực. Giữa lúc ấy, vợ chồng Phạm Lộc từ ngoài cửa bước vào. Đôi mắt của Lộc +Liên quắc lên như xì khói, nhìn Hằng và tôi, rồi quay ngoắt ra.
Cậu bé, tôi đã biết tên là Thành, gọi với theo: ”Cô Liên ơi! “
Nhưng hai người như không nghe thấy, đi khuất vào đám đông.
Tôi đang dự định uống hết ly nước, rồi kiếu từ, nhưng thái độ của Lộc + Liên, tôi lại ngồi lại nữa. Nụ đào hơi nhếch lên như cười nhưng rèm mi hơi khép lại, nét mặt rắn cương ra. Hằng quay lại tôi, rành rọt:
- Chú … có thích thiên nhiên?
Câu này đáng lẽ tôi hỏi Hằng, nhưng tôi lại nói một câu không đâu:
- Trăng nước Kuku vừa dữ lại vừa hiền!
Hằng nhìn như muốn vẽ, vào miệng tôi:
- Chú có thể … .nói rõ với Hằng?
Cô này có trình độ, nên tôi cứ thực lòng:
- Tôi ngắm mãi nàng trăng tối hôm qua, nét mặt chất phác hiền hòa, nhưng tôi có một cảm giác không lành. Dù bộ mặt như ”ma soeur” nhưng cứ nghĩ chuyến tàu 106 người, tôi lại thấy nàng trăng Kuku nhiều bí hiểm.
Đã hơn một giờ chuyện trò ngoài quán nước, tôi xin từ giã, vì có hẹn với cậu Thiện. Được biết cô Thu Hằng ở phía bên Tân Thuận, vì trục trặc hơn hai năm, nên bây giờ cô vẫn còn đang học lớp 11. Tôi cũng hơi ngạc nhiên về thái độ của vợ chồng Lộc+ Liên; định hôm nào thuận tiện, tôi sẽ hỏi thẳng.
Giống như tối hôm qua, lại một mình tôi mò ra phía cầu gỗ phía sau barrack, để nhìn nàng trăng lạ Kuku. Để nghe nước biển chuyện trò với gió lộng và để nhìn về phía quê hương, và có lúc lắng đọng để nghe lòng mình nhún nhẩy, đong đưa với cảnh đời mới.
Quê nhà đã vào tháng củ mật nên đêm thật dài, mới hơn 6 giờ chiều chim muông đã sải cánh về tổ ấm, gà qué đã ậm oẹ lên chuồng.

48. VÕNG LÕNG ĐU ĐƯA

Mãi 8 giờ chị Hằng mới mò lên chịu soi gương xem mặt mình. Nước triều lênh láng, gió dìu dịu như đèn cạn dần dầu. Tiếng quậy của một con cá ở dưới cầu, tôi ngoái lại, một làn hương lạ, quyện vào gió chiều. Tôi không tin được, trong bóng tối sáng lờ mờ, cô Hằng đang lò dò tiến ra cầu, dáng đi rụt rè vì sợ té hay vì ngại ngần? Vì cái gì, tôi cũng quay lại. Tôi đã cầm tay Hằng dẫn cô đi một đoạn cầu, không biết tay tôi run hay tay cô run, nhưng rõ ràng mát như lụa, mát như cái cảm giác ban đầu cô ngủ mê, gác chân lên ngực tôi.
Cái buổi ban đầu… lưu luyến ấy
Ngàn năm… chưa dễ … đã ai quên?
(ai quên hay quên đi tùy theo tâm trạng)
Chỉ một đoạn cầu, ý tưởng của bác Nguyễn Bính đã sồng sộc, xốc vào hồn tôi. Do mỗi người đều có lòng tự trọng nên tôi và Hằng đã ngồi cách xa nhau một cánh tay. Cô Hằng giọng ngọt như nước mưa đầu mùa:
- Chú …. hay ra đây ngồi một mình?
Nhìn làn tóc óng ả đen huyền, mềm như sóng lùng trong vụng, tôi nôn nao, thở nhè nhẹ, lẫn vào gió:
- Để.. nhìn về ….quê hương!
Hằng “hứ” lên một cái, nghe như tiếng con nai tơ “hực” lên mỗi khi gặp con dê mật, đang gãi sừng trong rừng thu. Nhìn vào hai đốm sáng, tôi hỏi đùa:
- Đã khi nào Hằng nhìn thấy ba mặt trăng một lúc chưa?
Giọng cười khèn khẹt như gà giò mới biết gọi trống:
- Thôi! ” Đốt ” chú đi!
Tôi định nói cho vui như nỗi niềm hơ hớ nhựa trong lòng: “đốt ” tức là ” nướng “, vậy Hằng định ăn hết hay một nửa? Nhưng khi nghe những tiếng cười khúc khích của mấy đôi, phía bên cầu barrack kia, tôi nói như giải lý nghiêm trang:
- Một chị Hằng ở trên trời, một chị ở dưới biển và một cô em Hằng ngồi trước mặt!
Trong barrack tự nhiên có tiếng đập vào cửa phành phạch liên hồi, như tiếng xe bình bịch nổ máy. Hằng đứng lên. Đưa Hằng trở vào rồi, tôi trở lại, ra cầu tiêu. Tôi đã chỉ cho Hằng một ngọn thông cao nhất, trong một khoảnh rừng non sát mé biển. Xa chừng 300 mét phía trong phố, để cho Hằng yên lòng, tôi nhấn mạnh rõ ràng: ”Đúng 6 giờ chiều mai tôi đã có mặt ở đấy rồi“,
Hằng đã yên lặng gật đầu.
Thật sự cái đêm hôm ấy, tôi nằm mà cứ như đang bơi trong nước, hay bay trong mây. Tôi nằm để nghe, để cảm nhận từng ngóc ngách tâm trạng của một người có “hẹn hò” nó sẽ như thế nào? Mỗi ai hồi tướng lại, cái buổi “hẹn hò” đầu đời của mình, mới thấy cái rạo rực, run rẩy. Lúc thì rõ ràng quang đãng, như trời không mây; lúc lại lờ mờ, như sương mù tháng củ mật, của lòng tôi lúc này.
Chuyện riêng… ai chằng… một lần mím môi?
Ngỡ ngàng là … tiếng lòng tôi
Bâng khuâng là cả ….nẻo trời bâng khuâng.
Chiều hôm sau, tôi đã rời barrack ngay từ 5: 30, tôi len lỏi đến tận gốc thông già, và đã vặt những cành lá thì mới lớn, để chuẩn bị một chỗ ngồi. Tiếng dạt dào, xao xác của sóng biển vọng đến, lẫn với những tiếng re re của dế cơm, dế chũi. Mà cũng lạ , tiếng dế chiều của Indo, khác hẳn với tiếng dế của quê nhà . Tiếng dế của đồng nội quê hương mình nó ngọt, nó êm; nó không dằn dỗi tức tưởi, như tiếng dế ở đây.
Một chiếc lá rơi, một tiếng chim hắng dạng, cũng làm tôi quay lại, tướng như “người ấy” đã … thập thò.
Rồi một làn hơi lạ, thoang thoảng như mùi hoa móng rồng xoắn cuộn vào hơi lá cây rừng. Trong ánh lờ mờ, Hằng từ trong ấy rụt rè tiến ra, không một lời nói. Như có một lực hút của nam châm, tôi và Hằng đã ôm chặt, như không còn ôm được nữa. Hằng hổn hển áp mũi và mặt vào cổ tôi. Cái mùi hoa móng rồng, như cả chùm, úp chặt vào mũi tôi, tay của tôi tự nhiên như mất hết sức, rủn ra. Tôi tường như phải ngã đổ kềnh ra, thì một hồi trống cà rùng gióng lên, ngay phía bên ngoài.
Năm, sáu cậu thiếu niên 14- 15 tuổi đuổi nhau, chạy xổ vào trong đám rừng non. Các cậu mặc quần áo boy scoot, hò hét tiếng Indo, tôi và Hằng chẳng hiểu gì. Như một thùng nước lạnh dội vào người đang ngủ, Hằng đã lủi ra đường, và tôi đờ đẫn nhìn mấy cậu Indo đùa dởn , như nhìn một chiếc thuyền câu, gió đổi chiều.
Tôi chưa muốn trở về barrack, tôi lang thang đi vào mấy phố lạ, trong bóng điện mập mờ chỗ sáng, chỗ tối. Tay này sờ lay kia, tôi sờ cổ, sờ má. Thậm chí, tôi sờ, tôi xoa cả bên ngoài chiếc áo sơ mi như tôi muốn tìm lại, một chút quen quen vừa mới đây. Cả cái mùi nhè nhẹ vương vấn, của móng rồng còn quấn, quẩn vào quần áo của tôi.
Đến một con đường hẹp, từ trong một ngõ hẻm, bóng một phụ nữ Indo, bế một đứa con nhỏ đi ra, tóc của người mẹ thật dài, đứa nhỏ cứ vơ lấy cuốn vào cổ nó. Cũng như có một lực hút ngầm, chân tôi đã quẹo đi theo hai mẹ con. Một luồng lực âm từ chui xộc vào tâm hồn, làm tôi quặn thắt lại. Em Hoa, người vợ tận tụy thủy chung của tôi, đang mòn mỏi ở quê nhà, tại sao tôi còn đu đưa tìm hương sắc lạ?
Tôi đã đi theo hai mẹ con cả một đường phố dài, cho đến khi họ rẽ. Tôi lững thững lần ra nơi có tiếng sóng gọi, mời. Tôi cứ bước những bước đi vô định, trên bãi cát lạ, vắng người. Tai nghe tiếng sóng gầm ghì dạt dào, như những lời oán trách, chửi bới của người mẹ mù lòa, và người vợ thơ dại trằn trọc trong những canh khuya. Người con, người chồng đã ra đi vào giông bão để cứu mình, cứu gia đình và may ra góp được một phần nhỏ bé, cứu quê hương?
Chân tôi đã mỏi dừ, mà lòng vẫn còn vặn vò khắc khoải. Tôi ngồi hẳn xuống một phiến đá lồi, dõi mất về hướng quê nhà. Tôi cứ nhìn mãi về phía xa xôi mờ mịt ấy, như muốn nguồn cơn với biển, với trời, chẳng lẽ con người của tôi lắt lay không có hướng như vậy?
Mới đến KuKu gần 10 ngày, đang chờ tàu cao ủy đến đón, đưa về nơi chính là trại Galang. Những buổi chiều muộn, buổi tối khuya từng cặp của cả hai barrack, ở trên cầu hay ngoài bãi. Không thể phủ nhận được một điều, sau một chuyến hãi hùng đi qua một cửa tử thần. Riêng tư, cá biệt không kể, hầu hết tâm tư của mỗi người đều mở rộng, như một kiếp đời mới để đón nhận, một cảnh đời nhiều mầu xanh phía trước. Nếu không nhìn rõ tâm trạng này, sẽ không thể thấu triệt, nhìn những sự việc khác thường, trong cảnh đời tị nạn nơi xứ người.
Tôi cứ ngồi mãi, để lòng tôi tâm tình, chuyện trò với sóng, với gió, với đất, với trời và với mây. Chẳng phải do những tiếng phành phạch đập cửa, càng không phải do những cái quắc mắt của vợ chồng Phạm Lộc. Những cái đó chỉ càng làm cho tôi chạy nhanh, chạy đường hoàng hơn tìm cái tôi muốn. Cái khác, cái không nhìn thấy nhưng lại có sức mạnh áp đảo là nhân cách, đạo đức của một người. Mấy tiếng đồng hồ, tôi ngồi một mình trong khu biển vắng, đã phân định rõ con đường phía trước, dù cho có nhiều chông gai, lầy lội cũng chẳng thể làm đổi hướng. Tôi chỉ nỗ lực vượt qua, như tôi đã vượt qua những hầm hố, những tử sinh của đời.
Tôi trở về đến barrack đã 11:30 đêm, để rồi sáng hôm sau, 6 giờ tôi đã ra khỏi barrack, lại trở ra vùng sóng gió, tôi cứ dọc theo ven bờ, tôi đi mãi để nhìn những cảnh vật chưa bao giờ thấy. Điều chính yếu, tôi nói với tôi, chưa đủ uy lực để chống đỡ với sóng điện từ, của một đôi mắt trong như nước giếng chùa Láng, giữa Thu.
Mãi chiều tối hôm ấy, tôi mới trở về, được tin sáng mai có tàu Cao ủy từ Galang, đến đón cả hai thuyền. Sáng sớm hôm sau, một chiếc tàu tương đối, ghé bến KuKu đón cả hai thuyền, thuyền buồm chúng tôi 53 người, và thuyền kia 61 người. Đó là ngày 30-01-1983.
Vì tôi thích gió, nên tôi ngồi ngay mũi của chiếc tàu, ngồi nhìn những lớp sóng bạc đầu đuổi nhau, tư tưởng của tôi bay nhẩy như một cánh bướm, trong một vườn hoa nhiều loại, nhiều mầu. Chợt một thoáng về con “tị nạn”, lại lang bang về bến bãi Chu Hải Vũng Tàu. Tàu đi cứ mỗi ngày mỗi to hơn, Natuna tới Kuku, rồi hôm nay từ Kuku đến Pulau Galang.
Nhìn những làn sóng cuồn cuộn đầu trắng như bông lại thấy thơ mộng, chẳng còn thấy hung dữ, bí hiểm như ở Chu Hải. Nhìn một đám mây vàng đang lướt thướt ở trên cao, cái đúng với lúc này, lại sai ở lúc khác. Chỉ mấy tháng trước, tôi thành khẩn làm đơn xin Đảng, và nhà nước mở rộng bàn tay nhân đạo, cho tôi trở lại nhà tù.
Nếu khi ấy Đảng lại chấp nhận lời xin xỏ của tôi, thì làm sao tâm hồn tôi lại la đà bay trên ngọn sóng, hôm nay? Cho nên ngay công lý không những phụ thuộc vào không gian, thời gian, mà còn phụ thuộc theo điều kiện, hoàn cảnh nữa.
Mới khoảng 3 giờ chiều, đã nhìn thấy ngọn cờ Cao Ũy Tị Nạn trắng nõn, dẫy dọn ở một khu có nhiều nhà. Mãi đầu mỏm Galang, lá cờ Indo đỏ trắng, cũng đang vẫy chào, như mời gọi những con người tha phương bất đắc dĩ, vì Tổ Quốc bị thằng con côn đồ, rình đâm lén, đang còn nằm dưỡng thương.
Tàu ghé bến Galang, lần lượt theo thuyền của mình, được dẫn đến một khu nhà gỗ lợp tôn, mỗi nhà dài 3 – 4 chục mét, cũng gọi là barrack. Nhìn trải dài chung quanh, có rất nhiều khu nhà barrack, như một thành phố trù phú dân cư. Thoáng chợt một cái gì gần gũi, nhưng quý trọng thiêng liêng, tôi có nhìn lầm không? Rõ ràng, lá cờ vàng 3 sọc đỗ, đang lắc lư xa xa phía
trong, như Tổ Quốc kính yêu nhớ thương, biền biệt của tôi từ hơn 20 năm rồi.
Mặc kệ bà con sắp xếp tìm chỗ nằm, tôi kéo tay cậu Thiện rảo bước, hướng về lá cờ Tổ Quốc, xa chừng hơn nửa cây số. Lắt léo một số đường ngang dọc chắn ngang, tôi vượt hết, cậu Thiện cũng bở hơi tai chạy theo tôi. Tôi và cậu đã đến chân cột cờ. Đó là khu ban đại diện của cộng đồng Việt Galang. Thảo nào khi nãy, có một số ông niềm nở ra đón, và đưa chúng tôi vào barrack.
Nhưng lá cờ Tổ Quốc đã thu hết tâm hồn của tôi rồi! Tôi ngước nhìn lá cờ vàng rực rỡ, tôi khoanh tay cúi đầu như kính chào. Một đứa con lạc lõng bơ vơ, mấy chục năm dài trong hang rấn, tổ sài lang.
Nhìn lá cờ nhún nhẩy như nụ cười đôn hậu của tổ tiên, hồn thiêng của sông núi., tôi có cảm tường như biết bao nhiêu hồn thiêng, của đồng bào và chiến sĩ đang quắn quít, chung quanh lá cờ.
Tôi và Thiện khoanh tay và kính cẩn cúi đầu lần nữa, kính chào tạm biệt ông cha, chúng tôi chạy vội về barrack để lo chỗ ăn, chỗ nằm. Barrack của chúng tôi số 33 thuộc Zone hai . Tối hôm đó chúng tôi đã được biết sơ sơ:
Hiện nay, tổng số đồng bào tị nạn ở trại trên 14,000 người. Những người của chiếc thuyền buồm chúng tôi, đã có địa chỉ để liên lạc thư từ, với thân nhân ở ngoại quốc.
Boat : Đ N 2013 CA , INS 7881 34 Banack 33, Zone II Refugee Camp, Galang I INDONESIA
Tôi xin thưa cùng quý vị:
Một phần tôi có những chi tiết thời gian, không gian và sự việc, do 1992 vợ tôi (Hoa) sang Mỹ đoàn tụ, đã mang theo những lá thư đầu tiên tôi đến Galang. Tôi gửi về cho mẹ tôi, cho Hoa qua những địa chỉ của chú Thương ở Pháp, bạn bè BK ở Mỹ, và những phái đoàn Caritas đến thăm trại tị nạn.
Hoa cũng đem theo:
- Những cuốn vở trình diện, hàng ngày của tôi.
- Giấy tạm trú nhà bố mẹ, 3 tháng một lần.
- Các giấy tờ tiểu ban QLNNHTĐV, công an Thành, Quận, Phường, khu vực nên có tên thật và chức vụ của họ.
- Giấy chứng nhận, của Bệnh viện Tâm thần Biên Hòa, (nơi tôi làm việc)
- Cả tờ giấy nháp tôi xin Đảng trở lại tù.
- Giấy kiểm điểm vắng nhà, hàng tuần lễ vượt biên, không thành v.v…
Thậm chí có cả một chiếc bí-tất dầy bằng những giẻ chùi trong cầu tiêu, để chống muỗi ở xà lim I Hỏa Lò. Cả một chiếc lược nhôm, tôi tự làm với Lê Sơn ở trại E, phố Lu Lào Cai 1968.
Galang do mưu sinh, nhiều người tạo lập những quán hàng, nên có một đường phố dài, nhà cửa chắp vá hai bên, để rồi có một rạp ciné, có nhà thờ, có chùa, có trường học cho các em nhỏ, và không thể thiếu có một đồn cảnh sát Indo dù ban đại diện cộng đồng đã có một tiểu tổ trật tự, để giải quyết những vụ việc tất nhiên, trong cộng đồng hơn chục vạn người, mà quyền tự do mỗi ngày mỗi tăng ở trong lòng mỗi người, một quần thể đông đúc, người cùng một quê hương , cùng chạy cộng sản trong giai đoạn này.
Riêng với tôi, vì nhiều lý do để tâm trạng của tôi, dần dần vón cục lại, dù 14 ngàn người này, đủ mọi thành phần xã hội. Khi tôi từ miệng con Hồng Tuộc trở về: Bố mẹ, em gái, bạn thân còn không nhận ra tôi, nên hầu như ở đây tôi không có ai là người quen biết.
- Tâm tư còn đặc sệt máu và mủ của quê nhà ngày đêm còn nặng mùi nên chẳng ai muốn gần ai.
- Những lo toan danh và lợi của mọi người làm cho tôi lạc lõng, cô đơn, quạnh hiu.
Tôi xin nói sơ về giá sinh hoạt khi ấy (đầu 1983) ở Galang để quý vị có một chút khái niệm:
1 đồng Việt Nam = 12 Rupias (tiền Indo)
1 lượng vàng = 400,000 rupias.
Bó rau muống độ 20 ngọn giá 100 rupias; quả bầu 3kg giá 500 rupias; mướp 1 quả giá 200 rupias; bát phở giá 500 rupias; 1 vé ciné 500 rupias; 1 lon bia 600 rupias; ly cà-phê đá 200 rupias.
Tàu của tôi khi đó đến 80 phần trăm có thân nhân ngoại quốc gửi tiên cho bằng money order, money transfer cứ 100 Mỹ kim= 80,000 rupias.
Do hoàn cảnh riêng tôi chẳng để ý đến những thứ ấy. Ngoài những ngày phải đi interview, khai báo với các phái đoàn, sáng sớm dậy tôi đã ra khỏi barrach để đi vào một khu rừng non ở gần đấy tới khi trời tối mới trở về barrack. Khi đó Cao Ủy phát cho mỗi người hai gói mì khô mỗi ngày. Nhiều người, nhiều gia đình họ đem mì đổi gạo v.v.. xoay sở. Nhưng với tôi đã quá đủ rồi, hai gói mì: sáng một, chiều một.

49. SƯỚNG KHỔ, KHÔNG CÓ TIÊU CHUẨN

Tôi làm được một cái chòi con ở giữa rừng, đủ để ngồi che mưa, nắng. Bên cạnh có một dòng suối con róc rách, cứ như Thiên Thai của cụ Văn Cao. Túi tôi thì rỗng, nhưng đầu tôi thì không còn chỗ chứa: tiếng chim hót, tiếng suối reo, gió mưa, cảnh vật không còn chỗ xếp. Tôi vào rừng như thế có 3 mục tiêu chính:
- Cần đi vơ vét nhặt nhạnh lại Anh ngữ trước đây đã rơi rụng gần hết.
- Giữ tâm hồn đi một con đường, tránh những dòng điện giật.
- Thưởng thức cái tự do cho cả cơ thể lẫn tinh thần và hoà nhập với thiên nhiên, thực hiện lời dạy của cụ Nguyễn: “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ….”
Chính trong cái tĩnh lặng, thanh vắng, tư tưởng mới chui luồn sâu vào từng ngóc ngách của mỗi sự việc. Tôi hiểu, nếu trong cuộc sống, mình muốn cái gì cũng được thì cuộc đời đâu có còn ly kỳ, hấp dẫn nữa?
Cho nên sự khổ đau và hạnh phúc chỉ là sự tương đối, không có tiêu chuẩn nào cả. Có bao nhiêu của cải, nhà cửa, ruộng vườn là hạnh phúc? Còn đói khát, tù đày, mù loà, tàn tật thì khổ đau?
Đó là sự huyền diệu, kỳ bí tạo hoá đã ban cho loài người! Tôi nhớ một sự kiện nhỏ mà bản thân tôi đã trải qua:
Thời gian: khoảng cuối 1969 đầu 1970 sau khi HCM chết.
Không gian: phân trại E của trại trung ương số 1 phố Lu Lào Cai.
Khi ấy do Trung Úy Hoàng Thanh làm giám thị, trại ở vào một nơi hẻo lánh, giữa một khu rừng già, xa với người dân. Tù nhân trong trại khoảng trên dưới 350 người.
Thành phần: hầu hết là tù chính trị, gồm chừng 70 người dân tộc: Mường, Mán, Mèo, Nhắng, Núng, Thái, Thổ v.v…VC ghép chung cho cái tội là thổ phỉ, cướp rừng.
- Có khoảng 20 người là tu sĩ, chủng sinh (Đi tu ở chủng viện VC đóng cửa, bắt về nhà lấy vợ)
- Chừng 30 BK gián điệp trong Nam ra Bắc hoạt động chống VC, còn lại hơn 200 là người ở các tỉnh trên miền Bắc, VC ghép chung cho cái tội là, phản tuyên truyền, phản cách mạng.
Cũng như nhiều các trại tù của VC trên miền Bắc, ăn uống đói khổ: Ngô, khoai, sắn, bo bo độn vào gạo. Không biết vì lý do gì, bặt đi hàng tuần lễ không hề có tí gạo nào, chỉ có sắn và bo bo.
Đúng là không có tự do, mới thấy giá trị cần thiết, của tự do. Không có ánh nấng, mới thấy ánh nắng, là kỳ diệu tuyệt vời. Chúng tôi bắt đầu nhớ và thèm cơm, rồi đến tuần thứ 2, thứ 3 thì bất cứ lúc nào mệt ngủ đi, chứ không thì bất cứ ở đâu ngoài nương khoai, vườn sắn, hay trong rừng chặt tre, đốn gỗ, ở lán thủ công nơi tù lao động, lúc nào tâm tư, cũng như chuyện trò, ai cũng chỉ nghĩ và nói về cơm. Rồi tuần lễ thứ 4, thứ 5 thì trại bắt đầu đi kiết lỵ nhiều, mặt anh nào cũng tái ngắt, mắt trắng dã nhìn nhau.
Thương hại nhất là các bác già, răng đau hoặc không có, móm mém ăn bo bo không nhai vỡ hết nên, khi đại tiện ra còn nguyên hạt. Nhà xí, nhà cầu của trại cũng không còn hôi thối nữa. Ăn phải có mắm muối, hay ít cá thịt thì phân mới thối. Do đấy có những anh đói qua, tiếc rẻ của trời đã chui vào thùng phân, hót nhặt những hạt bo bo còn nguyên. Khi đi lao động ra suối rửa, rồi cho vào ống nứa, nấu lại mà ăn.
Qua bản thân, tôi xin thành thật mà nói: Giai đoạn này, bất cứ đêm hay ngày, cuộc đời, cha mẹ, họ hàng, anh em, miền Nam, cả tổ quốc, quê hương chẳng cần và không còn lúc nào tôi nghĩ tới nữa, mà chỉ nghĩ đến ăn, đến cơm, đến những bữa ăn tưởng tượng. Nếu khi mệt thiếp ngủ đi mà mơ, cũng mơ đến ăn mà thôi, ngày 2-3 người chết là thường.
Chả trách VC họ giữ ổn định vững vàng, chế độ của họ được là thế ! Bất cứ người dân nào, từ cán bộ, công chức thợ thuyền v.v.. ai cũng chỉ đêm ngày, tính toán cho cuộc sống gia đình, không thiếu hụt, đói khát mà thôi. Có thể (tôi suy đoán), ban giám thị và cán bộ, thấy tình trạng này thì tụi tù, sẽ chết dần hết. Họ họp nhau, sau đó quyết định thứ Bẩy này, sẽ cho tụi tù ăn, một bữa cơm.
Tin còn bí mật, nhưng có thể một tên cán bộ nào đó chỉ nói riêng với một tên tù thân tín, như tổ trưởng, toán trưởng v.v. . . là chiều thứ Bẩy này, trại sẽ có một bữa cơm, nhớ chỉ một mình anh biết thôi ! Tin quan trọng như vậy, mà bảo chỉ mình anh biết. Anh đó phải có người thân tín khác, cho nên chỉ ngày hôm sau, cả trại hơn 300 người ai cũng biết cả .
Còn một ngày nữa, mới tới cái bữa cơm chiều thứ Bẩy, mong chờ ấy. Thế mà tù nhân, gặp nhau bất cứ ở đâu, lúc nào, mắt cũng sáng long lanh như nhắc nhở: “Còn một ngày nữa thôi đấy nhé!”. Để rồi cho tới đêm hôm thứ Sáu. Qua tôi, tôi tin rằng, đêm ấy là cả một trời thơ mộng, cho chiều mai của mỗi người tù. Ngay sáng hôm sau, toàn trại tập họp để đi lao động như mọi ngày. Dù không cần nhìn cũng phải thấy, mặt mọi người tù, như có một khí thế khác thường. Mắt ai cũng như sáng hẳn ra, mấy bác già khó tính, miệng cũng hay nở nụ cười, bao dung với mọi người .
Và chiều hôm ấy, (thứ Bẩy tuyệt vời) chưa về tới trại, hãy còn lưng chừng, gần trại E thôi. Mùi cơm nồng nàn từ bếp thơm phức đã tỏa phì ra, để những anh chàng tù, ai cũng muốn cong mũi lên hà hít, rồi nhìn nhau mỉm cười.
Vào trại, nhìn cảnh tù ríu rít chạy như con thoi, người ta bảo “vui như ngày tết “! Cá biệt một vài anh không thể kìm hãm lòng mình được, khi còn đang cân cơm đổ vào từng bát ở ngoài sân, anh ta đã chộp lấy phần của anh, dù chia chưa xong, bốc lấy bốc để, mắt trợn ngược, mồm há hốc đút cơm vào rồi.
Một số những người trầm lắng, họ thong thả đường hoàng, đưa cơm về chỗ đậy lại. Nếu không thể chế ngự được cái háo hức trong lòng, để nuốt vào những giọt nước rãi thèm khát rỉ ra, thì chỉ nhón một vài hạt cơm, cho vào miệng, khe khẽ nhai mà thôi !
Cá biệt có vài anh, dứt khoát, cương quyết không động vào một hạt cơm, đợi cho cán bộ vào buồng điểm xong, bấy giờ về chỗ mới bỏ màn xuống. Không sáng lắm vì ánh điện yếu lại ở trong màn, thì chịu khó rờ rẫm cũng sẽ phân biệt, từng hạt cơm để mà hường thụ, để mà thường thức dần dần cho đã niềm thương nhớ, nỗi thèm thuồng của gần 2 tháng trời chứ có ít đâu!
Tạo hóa đã ban cho loài người, một kỳ vật cao quý như vậy, mà nhiều người lại coi thường. Ngay tôi, bây giờ ở bất cứ nơi đâu, dù cả ở xứ Cờ Hoa này, cơm, bánh, thực phẩm, loại đắt tiền nhất tràn lan, u hề chung quanh, làm sao tôi tìm lại được bữa ăn có cảm giác thèm khát háo hức ngon, như chiều thứ Bẩy ở phân trại E, tù ngày ấy?
Từ đấy, nhìn vào thực tế cuộc sống xã hội, những người chán đời tự tử, từ bỏ cuộc sống; không phải là những người bị mù lòa, tàn tật hiểm nghèo nhất. Cũng không phải là những người trong hoàn cảnh đói khổ, nghèo túng nhất. Chúng ta đều đã suy ra khổ đau và hạnh phúc trong cuộc đời, chỉ là một sự tương đối.
Điều quan trọng là phải biết ứng dụng; nâng cao ý chí chịu đựng và chuyển đổi hoàn cảnh của mình.
Có những buổi chiều tối, từ trong rừng trở về, tôi thường lang thang về một đường phố dài nhiều hàng quán, do người tị nạn tạo lập Những cửa hàng của người Tàu, người miền Nam, miền Bắc, miền Trung, đủ kiểu đủ loại. Tôi có cảm tưởng như chợ Đại Cống Thần của đồng bào Hà Nội tản cư, hồi trước 1954.
Có một cửa hàng trái cây của người Hoa, tôi cứ lượn qua, lượn lại nhiều buổi tối. Nhìn những quả táo, cam, chùm nho, những loại tôi đã nhìn thấy ở chợ Bến Thành trước khi chui vào miệng con Hồng Tuộc, tôi đã được biết mùi. Nhưng có một trái lạ, tôi đã hỏi những người cùng mua hàng, tôi được biết là trái lê, nhìn cái da của nó trắng nõn như ngà voi, tròn như trái táo.
Lục lại cái hố sâu của tâm tưởng, rõ ràng tôi chưa hề được nếm mới của lạ này, nó ra sao? Tôi nâng quyết tâm, dứt khoát mình phái được nếm, tôi băn khoăn, vấn vương nhiều buổi tối mỗi khi bước qua ngôi hàng này, chỉ vì cái túi của tôi, đã từ lâu thường dán chặt vào nhau.
Thậm chí mấy cái tem gửi thư, tờ giấy viết, đã làm cho tôi phải lao đao, vấn vít lẫn vào, tiếng suối reo, tiếng chim hót và cả tiếng ve sầu kêu ở trong rừng. Thế mà một buổi tối tôi trở về, mới bước vào cửa barrack đã có mấy người rối rít:
- Anh Bình có loa gọi lên ban đại diện nhận money order!
Như trong hầm tối, tìm thấy cửa hang, nhiều sợi tơ vàng quấn quanh giấc ngủ của đêm hôm ấy. Ông ân hay bà ân nào của bốn phương trời, lại ngó một mắt, đến nơi hẻo lánh xa xôi này
Không ngờ người đó, lại là Lầu Chí Chăn, một người ” nhái ” được về sau tôi, nhưng lại có hoàn cảnh đến bờ trước. Hai mươi dollars, nhưng làm sao định giá của nó được, trong cảnh đời của tôi lúc bấy giờ?
Tôi đã chạy như có người đuổi, về chỗ cô nàng ”lê” có nước da ngà voi, được gói gọn trong cái giấy hồng lụa mềm, chỉ có 50 cents. Tôi đã ôm gọn cái tôi chưa biết mùi, chạy bay vào rừng, về căn lều đụp, và bên dòng suối Nghê Thường, không có chỗ nằm, tôi ngồi dựa vào một thân cây làm cột lều. Lôi tuột của lạ xuống, để ngay ra trước mặt, trước khi cắn, tôi nhìn kỹ lưỡng một lần nữa. Một làn hương chưa bao giờ ngửi thấy, đã đẩy tay tôi đưa áp vào mũi, phê qua, không chịu được nữa rồi.
Một con chim mầu xanh lam đầu đỏ chót, đứng trên một cành quen, chéo trước mặt nhìn tôi, cất tiếng hót: Hì … lá …..hì …….lá……cứ như đòi muốn chia phần. Tôi quắc mắt, lườm lại nó, rồi tôi đã cắn một miếng từ lúc nào, nghe cuống họng kêu rồn… rột. Tôi nhai ngấu nghiến, chỉ hơn hai phút, quả lê nõn nà đã mất tiêu vào cái vụng, cung cấp sự sống từ bao giờ. Con chim đầu đỏ đã bỏ đi từ, lúc tôi lườm.
Tiếng suối hôm nay nghe như một đám trẻ con đang cười đùa, đuổi nhau ở sân đình. Tôi đứng dậy thả bách bộ vào mãi chiếc đầm con, cạnh dòng suối. Miệng vẫn ngọt vì nước của trái lê còn dư vị.
Tư tường của tôi đã nhẩy phắt về quê nhà, thoáng thấy mẹ, vợ và con gái; lại vút về KuKu với con tàu đã nuốt sống 105 mạng người. Hẳn bây giờ chỉ còn xương rải rác đây đó dưới đáy biển, hay trong bụng những con . . .cá to. Còn một người vô thức nằm lại KuKu, nhìn chung quanh cảnh rùng im vắng, chợt một ý thơ lâu ngày của một cổ nhân: Trần Tử Ngang (651-702) đời nhà Đường xọc vào trí óc của tôi:
Nhìn phía trước người xưa vắng vẻ. Ngoảnh về sau quạnh quẽ người sau Ngẫm hay trời đất dài lâu Rừng hoang sầu lắng ngậm ngùi mình tôi …
Một điều đáng được biểu dương, như một truyền thống tâm linh, của dân tộc. Đồng bào ở Pulau Galang đã dựng xây một ngôi chùa to lớn với những trang trí của hoàn cảnh tị nạn. Nơi tụ tập cử hành, những ngày lễ trang nghiêm tôn thờ Đức Phật Như Lai và Quan Thế âm Bồ Tát. Một nhà thờ cao ráo nằm dài, cạnh một đồi thông, tôn thờ Chúa Giê – Su Hài Đồng và Đức Mẹ Đồng Trinh. Vào những ngày Chủ Nhật, người công giáo đến tham dự lễ đông đúc khác thường. Cha Dominici, Ngài tận tụy tha thiết phụng vụ người tị nạn, như cho chính người.
Có thể mỗi người vừa trải qua những ngày gian truân, hiểm nguy sống và chết, lòng mộ đạo được củng cố phát triển lũy tiến.
Kỳ này trên khu Cao Ủy nhộn nhịp khác thường, nhiều phái đoàn của Canada, Úc Đại Lợi và nhất là của Mỹ mới được tăng cường. Tôi đã nhìn, nghe nhiều cảnh, nhiều tình huống cười ra nước mắt, nhưng cũng có lúc ngậm ngùi xót xa. Sáng hôm qua tôi vừa đến khu của phái đoàn JVA (Mỹ) thấy một đám đông nhốn nháo. Một ông hơn 40 tuổi là đội trưởng một đồn cảnh sát ở Nha Trang, không hiểu vì lý do gì, bị phái đoàn Mỹ từ chối, ông đã kéo theo đứa con gái 8 tuổi, nhẩy xuống chiếc giếng sâu, phía sau khu Cao Ủy.
Người ta hô hoán, cảnh sát Indo đã phải giòng dây leo xuống cứu. Cả hai bố con đều bất tỉnh nhân sự, ông bố bị gãy chân trái, đứa con gái vỡ đầu máu chảy lênh láng, đỏ cả chiếc áo. Họ cho lên một chiếc xe Indo, chở đi nhà thương cấp cứu, tôi chưa biết nhà thương ở đâu? Xa hay gần?
Từ hơn một tháng nay, hệ thống truyền thanh của trại thường nói về cuộc vượt thoát oai hùng, bằng đường bộ của Lý Tống. Anh ta đã bơi qua eo biển giữa Mã Lai và Singapore. Một cái eo biển được thế giới biết đến, vì có rất nhiều cá mập. Một vài tờ báo ở Mỹ đã gọi anh là ” A man never seen “. Đài truyền thanh của trại, thường phát về chiều tối và buổi sáng sớm. Nhiều chi tiết tường thuật về anh, nhưng một chi tiết tôi để ý: ” Theo đài khi anh vượt qua Campuchia đến Thái Lan, ông Đại sứ Mỹ ở Thái Lan đã đến thăm anh, với những thành tích vượt thoát nhiều lần trong nhà tù của cộng sản. Ông có hỏi Lý Tống:
- Anh có một phương sách gì hữu hiệu, để tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản?
Lý Tống đã chỉ vào một tập giấy, viết tay ở đầu giường, trả lời:
- Tất cả đường lối, kế sách để triệt tiêu cái chế độ vô thần tàn ác cộng sản, đều nằm trong tập giấy này!
Tôi rất ngưỡng mộ, thèm muốn có một ngày nào đó được đọc, để học hỏi, những điều kỳ diệu ấy.
Rồi được biết anh Lý Tống cũng đã có mặt ở Galang này. Tấm lòng của anh cũng rất đặc biệt, do cái quỹ nào đó ở Mỹ đã tặng anh 500 dollars, anh đã tặng lại ngay phòng giáo dục trại, để mua sách vở cho các cháu thiếu nhi, ở trại Galang. Đã có một số anh em mới quen biết ở trại, nói với tôi:
-Ở trại tị nạn Galang này gần 2 chục ngàn người, có hai người đặc biệt: Lý Tống và anh là một điệp viên, đi tù 18 năm.
Lý Tống thì danh tiếng như cồn, còn anh như con gà giò, may mắn thoát khỏi mồm con lang, thì lại chui vào bụi rậm, nằm im thin thít! .
Tôi đã cười, chậm rãi nói với các anh:
- Một người đi trên máy bay gào mây, thét gió, một người thì lò dò lặn lội ven bờ ao. Cao và thấp đã rõ ràng!
Một buổi chiều muộn, tự nhiên thấy lòng cồn cào, lắt lay về Thành Đô yêu dấu. Tôi mò lang thang ra đầu một cái mỏm Galang, hướng về quê nhà. Trong dáng chiều nghệ non, rải rác đây đó hàng chục những cặp đầu xanh, lẫn đôi mái đầu tiêu nhiều muối ít, như dính chặt vào nhau, trong cái dạt dào, ồn ào của sóng biển.
Tâm hồn của họ đã biến đổi, từ khô cằn vàng úa, sang mầu xanh mượt mà, tương lai. Lòng nhiều người đã mở cửa, đón nhận hương sắc của đời. Da
trời chuyển thành mầu tím ngắt, như cà ghém tím vào mùa. Tôi đăm chiêu rõi nhìn về phương trời xa, mờ mịt, rồi lặng lẽ trở gót, tôi quay về barrack. Mặc cho dòng đời, chênh vênh ngược xuôi, chìm nổi.
Ngày hôm sau, tôi len lỏi vào mãi phía trong sâu của mảnh đất nhiều sỏi đá, nhưng đã khắc dấu tự do vào tâm hồn nhiều người Việt. Xa xa một ven đồi nhiều đại thụ, rõ ràng một chiếc cổng sơ sài, mộc mạc bằng cây rừng. Một miếng gỗ dài, quét vôi trắng, viết chữ: Chiêu An Tự, mực Tàu, đen nhánh, treo trên một chiếc cổng thô sơ, như muốn lôi kéo lòng tọc mạch, của khách lãm du.
Quả thật, khi tôi gần đến nơi, đã thấy thấp thoáng bóng người. Qua những con đường lắt léo leo trèo, mùi hương trầm đã phảng phất, trộn vào mùi hăng hắc, ẩm mốc của cây rừng. Bước vào trong cổng, càng đi tôi càng ngạc nhiên, con đường nho nhỏ gập ghềnh, nhưng tỏ có bàn tay người săn sửa hằng ngày, dẫn vào một ngôi chùa nhỏ. Phải nói là một ngôi nhà gỗ lợp tôn fi-bro, đã mốc meo. Càng đến gần, mùi hương khói càng đặc sệt. Tiếng mõ đều đều, thong thả vọng ra: Cốc . . cốc . cốc
Hồn tôi như du vào cõi thinh không, một thoáng trở về gặp tiền bối Chu Mạnh Trinh:
Thoảng bên tai một tiếng chầy kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
Thấy tôi ngấp ngó nhìn vào trong điện, một vị sư chừng gần 5 chục tuổi, từ trong một cửa ngách đi ra. Như một cơ duyên của hai tâm hồn riêng biệt, tôi đã được đàm đạo với thượng tọa, gần hai tiếng đồng hồ về kiếp nhân sinh, về nhân quả, luân hồi của kiếp người. Tôi nhớ vị thượng tọa đó là Thích Thắng Hoang. Hơn 20 năm rồi, chẳng biết thượng tọa hiện nay, ở phương nào?
Chiều hôm đó tôi trở về barrack, được biết tôi có một lá thư Việt Nam, nhìn đồng hồ, chỉ còn 7 phút nữa BĐD đóng cửa. Tôi chạy hộc tốc lên ban đại diện, như đuổi theo một chuyến xe đò vừa bắt đầu lăn bánh. Đến nơi, cửa đang đóng cánh cuối cùng, thì tôi bước vào.
Cầm lá thư đầu tiên từ quê hương, sau hơn 5 tháng mờ mịt chân mây. Như một hành động vô thức, đôi tay tôi đưa lá thư lên tận mũi từ bao giờ. Tôi có cảm tướng lá thư còn hơi hướng của mẹ, của vợ, của con và còn cả cái mùi ngan ngát của quê nhà thương nhớ, của riêng tôi.
Tôi hiểu có nhiều điều bất ngờ lắm trong lá thư, nhưng tôi cương quyết không xem lúc này. Tôi đút lá thư vào trong ngực, chỗ trái tim tôi đang thổn thức vơi đầy. Tôi sẽ ôm lá thư ngủ một đêm, với bao nhiêu điều dật dờ, lơ lửng bất ngờ trong lá thư đầu, từ ngày xa những người thương yêu nhất, của đời tôi.

50. MẸ ĐÃ ĐI VỚI THẦY

Sáng sớm hôm sau, xách hai gói mì, tôi chạy vào ngôi “biệt thự ” giữa rừng hoang, của tôi. Trang trọng, nhóm lửa, ca nước sôi, vừa uống vừa ăn mì xong, tôi ghé ra dòng suối tiên rửa mặt, rửa tay, chải đầu, bấy giờ tôi mới nhẹ nhàng khe khẽ, bóc lá thư. Từng chữ ngọt ngào của vợ tôi như múa, như giẫy lên đành đạch trước mắt tôi.
Tôi nhắm mắt ngồi im, chỉ còn tiếng gió rừng thì thào, tiếng suối rỉ rả cười, khóc triền miên. Tôi lại mở mắt ra đọc lại lá thư lần nữa, cố coi như ấn tượng khi nãy chỉ là ảo giác. Người mẹ kính yêu của tôi đã về với thầy tôi‟
Người đã mất 36 ngày rồi, lá thư Hoa đã viết ngày 8 tháng 5 1983, sau khi mẹ tôi đã mất đúng một tuần. Một ý tưởng dậy bảo của Đức Không Phu Tử, lấp ló trong đầu:
Phụ mẫu tại đường..-…bất khả viễn du..-…
(Cha mẹ già còn sống, con cái không được đi xa)
Tôi có lý do vững vàng, nhưng mắt tôi vẫn mờ đi. Hai giọt nước mắt đã rơi xuống đùi, chính mẹ tôi đã cho phép, và giục giã tôi ra đi. Cũng một ý tưởng khác chợt đến, làm cho mắt tôi sáng dần ra. Mẹ tôi sống ngày nào trong mù lòa tăm tối, xa chồng, xa con, càng mòn mỏi héo hon. Như vậy mẹ tôi về với thầy tôi sớm ngày nào, tôi phải vui lòng, tuy còn một chút co xoắn vặn vò: Tôi chưa đi hẳn tới bờ, nên mẹ tôi chưa hề được nếm thử một trái ngọt, hoa thơm, mà người đã bỏ công vun trồng.
Bù lại, trong lá thư tôi đã để lại một giọt máu nữa, trong Hoa. Không biết là trai hay gái, gần 7 tháng rồi, vợ tôi bụng chửa, con còn dại, giữa chợ đời khoai sắn, cũng không đầy bao tử.
Lá thư có mỗi một điều, làm cho bụng tôi cũng phải nở nụ cười, Hoa nói: ” Cô Ngọc Anh CA khu vực đã trợn mắt nói với Hoa: Anh Bình vẫn nói: Còn người mẹ mù lòa, tàu có đến đón, cũng không đi.”. Thế mà đã biến rồi, ai ngờ được ?
Tôi cười bụng, vì tôi đã lừa được chúng. Hai ngày sau, tôi đã được phái đoàn Mỹ chấp nhận. Họ hỏi tôi:
- Anh không có thân nhân nào ở Mỹ, vậy anh muốn đến tiểu bang nào?
Tôi đã trả lời rành rọt:
- Tôi xin ghi lòng, nhân dân Mỹ đã mở bàn tay nhân đạo, đón nhận tôi. Bất cứ nơi đâu trên thế giới này, không có mùi tanh hôi mủ máu của con Hồng Tuộc, là thiên đàng của tôi rồi.
Còn 13 ngày nữa, tôi sẽ được đi chuyển vào Galang II, là khu cho những đồng bào, đã được phái đoàn Mỹ chấp nhận. Già một nửa thuyền của tôi không được Mỹ đón nhận, họ đi Úc, Canada, v.v…
Đặc biệt có anh Trường, đại úy công an, không được đi Mỹ. Lại có dư luận về tới Việt Nam, là do tôi, có ý kiến với phái đoàn Mỹ.
Thân tôi cũng bèo bọt như những người tị nạn khác. Nếu tôi được làm theo ý, anh Trường là người được ưu tiên nhất đi Mỹ. Anh đã thực sự kinh tởm cái chế độ phi nhân tính, anh đã tẩy trừ được máu độc, bùa mê của con Hồng Tuộc trong con người của anh. Anh đáng được khích lệ, biểu dương hơn nhiều người của chúng ta, trong đó có tôi.
Một buổi trưa, tôi đang ngồi cặm cụi nhặt lưọm một số từ Anh Văn trong căn lều con giữa rừng thì có bóng một người thấp thoáng tiến vào. Cô Hoài! Cô là chị của Hằng, làm cho tôi đến ngỡ ngàng. Căn lều chỉ đủ chỗ cho hai người ngồi, vậy mà cô cố lách vào.
Điều chính yếu là cô muốn khoe với tôi, cô đã được phái đoàn Mỹ nhận và cô cũng sắp vào Galang II. Ngồi trong căn lều chật, hơi hướng của cô phả ra như mưa bụi, nhiều lúc tôi phải nín thở để đè ngọn lửa, cứ đòi phực lên trong lòng. Lẽ thông thường, mèo đi lùng sục tìm mỡ, nhưng hôm nay, do hoàn cảnh tị nạn đã đến được bờ tự do.
Lòng của ai, to nhỏ tùy theo đều mở, nên mỡ đã bò đến miệng một con mèo. Con mèo này cũng thèm lắm, nhưng có một sức mạnh vô hình áp đảo, nên đành dội cho tắt ngấm ngọn lửa ở trong lòng.
Hơn một giờ chuyện trò, có lúc cô đã rủ tôi ra bên dòng suối mơ, đứng nghe tiếng cười róc rách của những giọt đời khua khoắng. Sau khi tiễn cô ra, tôi lại mò mẫm vào căn lều, hãy còn đầy ắp hơi hướng của cô Hoài.
Từ ở Natuna, Kuku, cho đến Galang tôi chưa một lần nói chuyện hai người, kể cả những điện từ của đôi mắt với cô. Hẳn cô thấy từ 6, 7 tháng nay tôi và cô Hằng, không còn liên hệ gì với nhau? Thôi cứ để cho dòng đời tôi theo những nẻo riêng, của mỗi người. Tuy vậy, cô Hoài cũng đã khuấy rối lòng tôi, cả buổi chiều hôm ấy. Ngồi, nhìn những từ ngữ tôi đang cần thu nhặt, chúng cứ ngoáy lên chẳng chịu chui vào trong tiềm thức.
Nghe một tiếng chim kêu lạ, tôi chui ra khỏi lều, một con chim to như con thỏ non đến thì, có cái đuôi cánh chả dài như đuôi công. Đầu nó có một chùm lông, trông như một cái ngù vàng và đỏ, tưởng như nó đang đội một cái mũ cánh chuồn. Nó nhìn xuống dòng suối, rồi lại nhìn tôi, kêu:
Kê … tai … kê … tai … mà tôi nghe như kề tai …. .kề … tai … .Tôi định dướn lên hỏi nó: ” Kề tai để làm gì ? ” Nhưng tôi chợt kìm lại, làm sao nó hiểu được tiếng người? Tôi chưa hề trông thấy một con chim nào như vậy ở quê hương. Tôi đã ngẩn ngơ nghe nó kêu lâu lắm, cho đến khi nó cất cánh bay đi.
Nhớ lại, lúc nói chuyện với cô Hoài, tôi được biết vợ chồng Phạm Lộc, cả gia đình bác Lý Văn Bang, cả cậu Sinh vua trèo dừa, cũng sang Úc. Và cậu Sinh cũng sẽ là rể tương lai, của bác Bang. Ngay buổi chiều hôm ấy, tôi đã gặp vợ chồng Lộc. Vì người ân, và vì món nợ danh dự 3 cây vàng, Lộc+ Liên chưa có địa chỉ ở Úc. Tôi và Lộc đều lờ đi “cái quắc mắt lườm” hôm ấy. Có thể thấy tôi và Hằng như không còn liên hệ, nên vợ chồng Lộc lại vồn vã như xưa. Phái đoàn Mỹ đã cho tôi một cái địa chỉ ở Mỹ, để liên lạc thư từ.
Hội IRC 140 Boyston st. MA. 02101.
Tôi chẳng biết nó ở đâu, tôi cứ đưa cho vợ chồng Lộc để sau này phòng hờ, liên lạc. Ngày 8 – 6 tôi được chuyển vào Galang II, cách Galang I chừng 3 cây số. Galang II lúc ấy có khoảng 4.000 đồng bào, cũng có một ban đại diện.
Từ hơn một tháng trước, do tình cờ tôi quen một anh đại úy pháo binh, tên là Đỗ Văn Thịnh. Cái lon Đại Úy của anh phải đeo hàng chục năm, chỉ vì anh là loại người đứng thẳng bằng đôi chân của mình, và đầu của anh cũng không biết cúi. Đấy cũng là điều tôi trọng quý anh.
Sau khi anh biết sơ lược về chuyện tù đày của tôi, và thấy tôi cứ hay vào rừng một mình. Anh khích lệ, là tôi cần phải hòa đồng với mọi người.
Anh đã trên 50, và anh lại là người từ chối, không đi Mỹ, dù anh đã đi tu nghiệp ở Mỹ gần 2 năm. Anh đã xin đi Úc. Cũng chính do anh giới thiệu, nên khi vào Galang II tôi đã đảm nhận phần việc Trưởng phòng tiếp liệu. Vì anh đã hiểu tôi, nhìn lợi và danh, như nhìn lá cây trong rừng.
Phòng tiếp liệu ở một trại tị nạn, cũng chẳng có gì. Tuy vậy, do buổi đầu nhiều khó khăn thiếu thốn, cũng đã làm cho nhiều người khúc mắc. Cụ thể, mấy ông trưởng phòng trước, cũng có một vài vấn đề. Cũng chẳng có gì: Mì gói, gạo, cá khô, xà phòng, trứng vịt, gà. Đôi khi có chăn màn, văn phòng phẩm v .v…do Cao ủy tị nạn cung cấp.
Tôi cũng đã đắn đo mấy ngày, dù chưa bao giờ có, nhưng danh và lợi đối với tôi vẫn bàng bạc như lá thu, còn cõng hè. Nhìn lại suốt 18 năm tù ngục, ở cả các trại tù trung ương. Nếu ham muốn, tôi cũng tạm đủ khả năng làm trật tự thi đua, buồng trưởng, đội hay toán trưởng. Nhưng cao nhất chỉ là tổ trưởng một tổ mộc kỹ thuật, về chuyên môn, đó cũng là chỗ đứng của tôi ở trong tù. Nếu không thì sẽ cũng như anh Luyện, “ăn đói nằm co, còn hơn ăn no, vác nặng”. Nhưng mà nằm “co” một chỗ thì làm sao hiểu, biết được những sự việc ở bên ngoài trại chung?
Huống chi ở đây là làm cho mình, cho những đồng bào tị nạn cộng sản như mình, nên tôi đã nhận lời.
Ban đại diện khi đó, do anh Vũ Minh làm trại trưởng, bác sĩ Vũ Linh Huy là tổng thư ký và có 4 phòng: Trật tự, giáo dục, thông tin và tiếp liệu.
Phòng tiếp liệu có 5 nhân viên phụ giúp, lương tượng trưng mỗi nhân viên 500 Rupias, trưởng phòng 800 Rupias. Tôi ở thuộc Zone D, mỗi Zone từ 5 đến 7 banack. Tôi nhớ Cao Xuân Huy cùng tàu khi ấy, cũng là Zone trưởng một Zone.
Galang II bắt đầu có chủ trương mới, mọi người được nhận vào Galang II để đi Mỹ, đều phải được khảo sát về trình độ Anh Ngữ. Tùy theo trình độ để phân bổ thành các lớp học từ 3 đến 5 tháng. Sau đó, phải học thêm nếp sống văn hóa của nước Mỹ. Như thế, lớp cao nhất là C.O (Cultural only), nghĩa là, chỉ cần học để có khái niệm, về nếp sống văn hóa ở xã hội Mỹ.
Tôi do may mắn, và cũng có thể do ấn tượng, trong lúc trao đổi khảo sát, của những giáo viên Anh Ngữ Indo. Khi họ biết tôi đã được CIA huấn luyện đào tạo, ở Sài Gòn (hơn 20 năm xưa), nên tôi chỉ phải tham dự lớp C.O. Họ chăm chú, tò mò hỏi những chuyện, một mình tôi dám xông vào bên trong bức màn sắt của cộng sản?
Trong một cái trại tị nạn cộng sản hơn 4000 người, thì hàng ngày có nhiều những sự việc, tình huống xẩy ra. Có một sự việc vẫn còn đeo mắc, trong lòng tôi đến ngày hôm nay. Hôm ấy là một ngày phát phần thường mãn khóa cho các lớp học Việt Ngữ, của các cháu nhỏ từ 7 đến 15 tuổi.
Hàng mấy trăm các em thiếu nhi, hàng nghìn phụ huynh và đồng bào trong trại, có quan khách Indo và Cao ủy tham dự. Ngoài sân trại ban đại diện, lá cờ vàng 3 sọc đỏ tươi roi rói, uốn éo sóng đôi với lá cờ Indo, mầu trắng đỏ, đứng bên cạnh.
Sau bài quốc ca chào cờ của Indo, đến khúc nhạc chuẩn bị chào Quốc Kỳ Việt Nam. Đứng trong hàng ban đại diện, tôi dõng dạc, hùng hồn cất cao lời ca, hòa đồng với hàng ngàn cái miệng, làm nóng sôi, râm ran bầu không khí của cả một vùng. Nhiều chỗ, tôi phải dựa vào chung quanh để gào, hát Quốc Ca từ hơn 20 năm không được dự hưởng.
Mắt tôi ngước nhìn lá cờ vàng, của Tổ Quốc giẫy dọn, như đang cuốn hồn dân tộc, khí thiêng của sông núi trong ánh hào quang của mặt trời, lòng tôi thổn thức rung rưng sung sướng. Nhiều người lên nói chuyện tôi đã quên rồi, nhưng ông Siu Năng Năng đại diện của Galang, nhìn xuống các em thiếu nhi Việt Nam, nhắc nhở:
- Rồi đây các em sẽ đến sống lập nghiệp ở một nước thứ ba (nước Mỹ). Các em hãy luôn luôn ghi nhớ mình là người Việt Nam, thì phải biết tiếng Việt Nam!
Bằng những âm sắc hơi là lạ của tiếng Anh, ông đã làm tôi xúc động đờ đẫn:
“Một người Indo, lại quan tâm nhắc nhở con em của dân tộc tôi. Nhưng chính chúng tôi, những ai còn ý thức tự trọng mình là người Việt Nam? Tôi xin cảm ơn ông Siu Năng Năng mãi mãi “.
Ông đã dậy cho tôi một bài học ý nghĩa.
Một thoáng chợt về gặp cụ Bàng Bá Lân:
Đừng lo đàn con dốt Anh Văn! Mà sợ chúng quên gốc, quên nguồn, mà thôi.
Một buổi trưa, tôi đang ngồi làm tổng kết cho quý hai, thoáng một bóng người lấp loáng, ngoài cửa văn phòng. Một anh chừng 4 chục tuổi, giọng Nam Trung nhẹ như ca, như hát:
-Ông là trưởng phòng hả? Vui lòng cho tôi xin một lọ corrector!
Sau khi được biết anh là Lý Tống, như thấy được món hàng tôi đang cần tìm. Dịp may đưa đến, tôi đã vồn vã, cả buổi chiều hôm ấy, anh và tôi đã say sưa đưa nhau ra hội trường vắng vẻ, đổi trao những chuyện quê hương và những chuyện đời. Khi đã là bạn bè, tôi đã trầm trồ muốn được đọc, xem cái kế hoạch tiêu diệt cộng sản anh đã nói với ông đại sứ Mỹ ở Thái Lan. Anh đã trả lời tôi là: ” Anh quá nhiều sách vở, giấy tờ, bây giờ không biết để lẫn vào đâu? ” Anh hứa sẽ tìm. Những lần sau tôi hỏi đến, anh vẫn chưa tìm thấy.
Một kế hoạch thần kỳ như vậy, thật đáng tiếc cho quê hương, cho nhân loại!
Cho tới ngày sang Hoa Kỳ, khóa học trước, sau, mỗi người một hướng, trong cái bao la của nước Mỹ với vạn nẻo đường tị nạn quê người, chưa một lần nào Lý Tống và tôi gặp lại. Dù khi chia tay ở Galang Lý Tống đã viết vào cuốn sổ của tôi một địa chỉ ở đại học Harvard để liên lạc, khi đến Mỹ. Thậm chí 2002, tôi đã lên đài Sống Trên Đất Mỹ để ca tụng những chiến công có một không hai của anh ở Việt Nam, ở Cuba.
Một lần, đài Sống Trên Đất Mỹ đã mời hai diễn giả trong một buổi lễ kỷ niệm của đài, là Lý Tống và tôi. Nhưng thật không may ngày ấy, dù ông Vạn Võ đã gửi vé máy bay sang, một lý do bất khả kháng, tôi không đi được. Tôi đã tưởng buổi ấy, để Lý Tống biết được tác giả Thép Đen chính là người đã quen nhiều với Lý Tống ở Galang.
Đã có những chuyện ngộ nghĩnh như một anh đại úy Dù (quen ở Galang), đã mua hai cuốn l+ 2 Thép Đen, gửi cho tôi với lời đề tặng:
“Đây là một tác phẩm đáng giá, anh cần phải đọc” (Tôi vẫn giữ để kỷ niệm).
Cũng thật là hiếm trong lĩnh vực văn chương, mua sách của tác giả, để tặng cho tác giả. Cho đến bây giờ anh bạn đại úy ấy, cả Lý Tống và nhiều người nữa, vẫn hiểu ĐCB và người quen biết cũ, là hai người.
Một buổi trưa, tôi ở phòng tiếp liệu trở về barrack, bà con kháo nhau là cái cô Hoài rất ăn diện. Đêm qua, có một anh trung úy hải quân đã từ buồng của cô trèo qua cửa sổ ngã, phải đi băng đầu gối. Tôi thấy chuyện như vậy là bình thường. Biết bao nhiêu cô gái thích ăn diện lại không có tiền, trong khi thoát khỏi sự kiềm tỏa của gia đình.
Tôi đã đau lòng với những cô gái Việt, sóng đôi, hoặc thậm thụt với cảnh sát Indo. Tràn lan những chuyện ngược xuôi não ruột, thậm chí có cô bụng chửa, có cô đẻ con. Những vấn nạn này, nguồn gốc do đâu?
Một ngày chủ nhật, tôi rủ cậu Công và cậu Ngọc Anh (tên giống cô công an khu vực) lần mò ra cái nghĩa địa ở một nơi hẻo lánh, giữa Galang I và II. Tôi và hai cậu cứ lang thang cả buổi, hết ngôi mộ này đến ngôi khác. Gần hai chục nấm mồ vô chủ, đã nằm lại nơi đất khách. Như một chút lòng của người cùng một nước, chúng tôi thăm viếng.
Hai cậu đều là nhân viên phòng tiếp liệu, do một sự tình cờ năm 2001, tôi gặp lại cậu Ngọc Anh ở một Super Market. Mãi tôi mới nhận ra, cậu đã có sự nghiệp, nhà cửa vợ con ở thành phố Milton, cùng tiểu bang MA.

51. ĐÀM ĐẠO, BẠN BÈ INDO

Do những quen biết với một vài giáo viên Anh Văn người Indo, một ông 38 tuổi dậy văn hóa Mỹ lớp tôi là Darko Sin. Anh này rất thích nói chuyện với tôi, từ khi anh sát hạch, biết sơ qua CIA, đã đào tạo tôi ở Sài Gòn. Anh rất tò mò muốn biết nhiều chuyện tù đầy, trong chế độ cộng sản miền Bắc VN. Vì thế, anh đã tổ chức một bữa cơm, có tôi và 5- 6 người bạn của anh. Mục đích, anh muốn tôi nói những nét chính yếu, tôi đã ra Hà Nội đầu 1962. Để hỗ trợ Anh ngữ ngập ngọng của tôi, tôi đã mời theo anh Vũ Linh Huy, tổng thư ký của ban đại diện trại.
Mở đầu bữa cơm, có nhiều chuyện đề cập, nhưng đều có chung một quan điểm: Trong sự quen biết giữa người với người, điều quan trọng bậc nhất là sự chân thành, dù có lúc gồ ghề, thô kệch, nhưng sẽ dài lâu.
Mấy người Indo, có anh là cảnh sát trưởng phòng hình sự Galang, và một ông trong ban Cao Ủy Tị Nạn. Các anh tỏ ra xề xoà thẳng thắn, đã nói thực:
“Vì có các anh là Việt Nam, chứ chỉ riêng chúng tôi thường dùng 10 chiếc đũa trời, chẳng cần thìa, đũa, bát”.
Các anh nói là thực, chính tôi đã nhìn thấy những nhà dân Indo, thường ăn bốc.
Cơm nước bia, rượu đã lưng chừng, anh Darko Sin đứng dậy yêu cầu tôi tường thuật sự việc v.v. . . Anh cũng khỏa tay với mấy người bạn anh, là cũng muốn biết diễn tiến, của sự việc. Để đáp lại tình giao hảo, với tiếng Anh phải dùng tay phụ họa, tôi đã lần lượt tường thuật lại sự việc tôi ra Bắc, và trả lời mọi câu hỏi của các anh. Cuối cùng các anh dồn hết vào một câu hỏi:
- Tại sao nước Việt Nam, tình huống thế nào để bây giờ, các anh phải bỏ nước ra đi?
Một câu hỏi đơn giản, nhưng thật nhiêu khê để trả lời. Tôi và bác sĩ Huy nhìn nhau, anh Huy đã định trả lời, nhưng không hiểu nghĩ sao, anh lại bảo tôi cứ nói, rồi anh phụ.
Tự biết mình có nhược điểm ăn nói, uống một hơi bia đầy, hỗ trợ, ngồi trầm lắng một phút, tôi thấy sự việc lổn nhổn như một đống xà bần. Tôi nghĩ không gì bằng, hãy theo lời dậy của đức Khổng Phu Tử: tìm một thí dụ để minh giải, chỉ cần cho các bạn, hiểu khái niệm diễn tiến chính. Nghĩ như thế, tôi giơ tay làm hiệu, xin nói. Cả bàn ngồi yên, tôi nói đại:
- Thưa các bạn, khả năng Anh ngữ của tôi yếu kém. Tôi đưa ra một thí dụ để minh giải, xin các bạn cố gắng để hiểu tôi:
” Có hai ông bà cụ kia tuy quê mùa, nhưng rất hiền hòa, đôn hậu. ông bà sống với một đàn con ngoan. Ông bà giữ nền nếp gia phong, thường dậy đàn con: Con trai thì phải tuân theo ngũ thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Con gái thì phải ứng dụng tứ đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh “. Tâm linh với đất, với trời, với thượng đế, với tổ tiên.
Một tên giầu có ở phương Tây sang chiếm ngôi nhà, lấy lý do là khai phá dạy bảo, cho biết văn minh. Thực tế nó bất cả nhà làm nô lệ, phải phục dịch nó, nhưng nó không hề động đến nền nếp gia phong, mà còn khuyến khích mọi người tôn thờ thần linh các tôn giáo. Tuy có lam lũ, khổ cực nhưng cuộc sống cũng tạm qua ngày.
Mấy nhà hàng xóm chung quanh, cũng bị những tên giầu có khác, cũng ở phương Tây đến chiếm nhà. Cảnh sống của những nhà hàng xóm đó, cũng khổ cực lầm than, như gia đình ông bà cụ
Một thằng con của ông bà cụ đi tha phương cầu thực trở về đã khích lệ, vận động ông bà cụ và các anh chị em, hãy đứng lên đuổi tên nhà giầu ác ôn đi. Ông bà cụ cũng như anh chị em, đều đồng ý góp tiền, góp công vất vả gian lao đã đuổi được tên nhà giầu chó chết đi.
Nhưng thằng con tha phương đã bắt anh chị em và cả ông bà cụ phải ăn, ở có tiêu chuẩn. Không được sang nhà hàng xóm chơi, và cũng cấm hàng xóm sang nhà mình. Nó còn cấm cả nhà không được thờ cúng ông bà tổ tiên, thần Phật hay Chúa nữa.
Thấy thằng con ngỗ ngược côn đồ, ông bà cụ và những người con khác định lấy tình cha con, anh em khuyên bảo cho êm ấm hoà thuận gia đình.
Nhưng tên con côn đồ ngỗ ngược đã không nghe, mà còn xúc xiểm, chia rẽ anh em cha con. Thậm chí, nó còn thủ tiêu anh chị em nào cứng cổ, đứng lên phản đối. Nó còn hành hạ bịt miệng cả bố mẹ và anh chị em, để rồi phải đánh nhau tơi bời.
Chín năm trường, đuổi được tên ác ôn nhà giầu trước đây là công lao của cả nhà, nhưng tên con ngỗ ngược này, nó dành hết là công của nó. Thực tế, đã đến giai đoạn, các tên nhà giấu phương Tây khác, cũng phải trả nhà dần hết lại cho hàng xóm, vì: Thế đã đến thời.
Cuối cùng căn nhà êm ấm của ông bà cụ phải chia đôi, thằng con ngỗ nghịch bịp bợm, rủ rê được một số anh chị em ngây thơ nhẹ dạ, ở nửa phần phía Bắc. Một số anh chị em đã biết mặt thằng đểu, đều về phía Nam căn nhà. Bố mẹ cũng biết dã tâm của thằng con ngỗ ngược, nên đã về phía Nam sống với.đàn con hiền hòa, ngoan ngoãn, biết thờ cha kính mẹ, giữ truyền thống đạo lý của gia đình, tổ tiên.
Không ngờ dã tâm của thằng con ngỗ nghịch ở miền Bắc, dùng trăm mưu nghìn kế, làm sao để nó chiếm cả ngôi nhà. Bố mẹ cũng biết là thằng con mất dạy, nhưng vẫn không ngờ là nó đâm lén cả bố nó gần chết, nên nó đã chiếm được cả ngôi nhà. Ông bố bị nó dán băng kín cả miệng đang nằm dưỡng thương một chỗ. Chúng tôi đã biết cái máu rắn độc của nó, bố nó mà còn bị đâm lén, bịt miệng, bịt mồm, huống chi là anh chị em. Cụ thể anh em nào phản đối, nó giết hoặc cho vào nhà tù. Chúng tôi là những người chạy thoát sang đây. Cả 6 – 7 người đều đứng dậy vỗ tay, anh Darko Sin đã cười nói:
- Thằng con ngỗ nghịch là Hồ Chí Minh!
Rồi ông Cao Ủy cũng dõng dạc:
- Ông cụ bị đâm lén và các đứa con ngoan, là Việt Nam Cộng Hòa?
Tôi không định mà tay vỗ đồm độp, tự thưởng cho tôi đã sắp xếp tạm đống xà bần, đồng thời cùng mọi người nâng cốc, thêm rượu. Anh cảnh sát trưởng hình sự đã đứng lên mặt đỏ bừng, nhìn tôi mắt trợn trừng, tưởng như anh sừng sộ với tôi. Tay của anh chặt chặt, vào không khí:
- Ngày 30-9-1965 đến tháng 3-1966 chúng tôi đã chặt cổ hết tụi nó!
Tôi và BS Huy đều ngơ ngác, thì anh Darko Sin đã đứng lên từ tốn, rành mạch:
- Để đáp lại tôi cũng xin tường thuật vài nét sơ lược, về đất nước tôi:
” Khoảng cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60 ông Shokarno làm tổng thống, đứng đầu những nước trung lập, lãnh đạo khối thế giới thứ ba. Ông ta được các nước cộng sản nhiệt liệt hoan nghênh, nhất là Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh. Khi ấy HCM đã thổi Shokarno như một anh hùng sáng chói của thế giới, những bài ca ra rả trên đài như:
Shokarno… .Hồ Chí Minh.
Đất nước vạn dừa .xanh.
Anh nhìn sang đây, tôi nhìn sang đây………..
Trong khi Mao tung cán bộ vào Indo, vì có nhiều người Hoa kiều ở khắp các đảo, chúng bí mật tuyên truyền lập nhiều tổ đảng cộng sản, ở khắp các cơ quan đầu não. Trong quân đội chúng có những đường dây chằng chịt, để rồi đêm ngày 30- 9- 1965, bất ngờ chúng bắt tất cả những tướng chủ chốt, của quân đội gồm 7 tướng và làm một cuộc đảo chính. Chúng đã giết và chặt cổ 6 vị tướng, một vị tướng đã trốn thoát là Shoharto.
Ông ta mau chóng, kịp thời củng cố quân đội, và những vệ binh cảnh sát Quốc Gia, quyết liệt phản công lại lũ cộng sản. Cho tới sáng ngày hôm sau, một phong trào rầm rộ của quần chúng nhân dân, đã cùng với quân đội lùng sục mọi tàn dư của đảng PKI (đảng cộng sản Indo). Lòng phẫn nộ của quân đội và nhân dân trong một năm đã giết, chém cổ gần một triệu (1 000 000) tên côn đồ, phản tổ quốc này. Giữa tháng 3-1967, toàn dân nhất trí bầu ông Shoharto lên làm tổng thống, theo chế độ Cộng Hòa. Nước Indonesia đã gia nhập trở lại Liên Hiệp Quốc và hiệp hội ASEAN.
Ông Shokarno đã ngả theo và dung túng cộng sản, nên bị quần chúng quản thúc, giam ở trong tù và đã chết ngày 21-6-1970. Hiện nay tổng thống của Indo là tướng Shoharto.
Anh Huy và tôi, cả những người Indo đều đứng dậy vỗ tay cảm ơn anh Darko Sin. Tôi tưởng bữa cơm họp mặt hôm ấy, đã tạm thời ổn thỏa.
Nhưng sau đó, cái ông trong Cao Ủy (rất tiếc tôi không thể nhớ được tên) đã nhìn tôi, rồi đưa ra một vấn đề băn khoăn khó hiểu, của ông. Ông đã đứng hẳn lên thong thả rõ ràng:
- Chế độ cộng sản đã đưa đến nghèo đói, lầm than cho mọi người dân, trong nước. Mọi quyền tự do, kể cả tôn giáo đều bị bóp nghẹt. Tại sao trên thế giới còn rất nhiều cá nhân, đoàn thế, nhất là giai cấp trí thức, vẫn nồng nhiệt, nếu không nói là say mê, ủng hộ làm lợi cho cộng sản?
Anh Huy và tôi lại nhìn nhau, anh Huy lắc lắc đầu nhìn tôi như muốn nói gì. Tôi hiểu ý của anh là: ” Lại một vấn đề hắc búa, không phải chỉ trả lời một câu đơn giản “. Đã có hơi men, giữ nhịp độ ca-lo-ri trong người, thái độ của anh Huy như thế, làm nhịp độ trái tim “cuồng” của tôi phồng hơn. Như một đòn bẩy vào chỗ coi trời, bằng hòn đảo JAVA. Tôi đứng dậy nhìn thẳng vào ông Cao Ủy Tị Nạn:
- Xin cảm ơn ông đã hỏi một câu khá độc đáo. Một sự việc đang nóng bỏng trong thời đại, của chúng ta. Để làm sáng tỏ điều băn khoăn của ông, phải nói nhiều, nói dài, mà bữa cơm của chúng ta hôm nay đã tối muộn.
Vả lại điều thắc mắc của ông thực tế, đã được trả lời rồi. Qua nội dung thắc mắc, ông là người rất quan tâm đến xã hội và thời đại. Do thời gian và sự kiện, có rất nhiều bí ẩn lịch sử đã được bạch hóa.
Xin ông hãy lắng đọng, một mình nghĩ suy và tìm lại báo chí tài liệu: Những trí thức thiên tả, thiên cộng sản của Indo, cụ thể là một tổng thống Shokarno. Ở nước tôi: một số trí thức từ Pháp, từ Đức về nước theo cộng sản.
Ngoài thế giới, đầu tiên là Phong trào Caucaise vùng Tây Bá Lợi Á, mà Lênine đã lợi dụng như thế nào. Biết bao nhiêu cá nhân mà cụ thể là triết gia, bác học Bertrand Russell người Anh, giải thưởng Nobel văn chương 1950 (18-5-1872, chết 2-2-1970). Mới đây là cô đào Jane Fonda đã vẻ vang tự hào, ngồi trên mâm pháo của Việt Cộng. Ngay mới đây là những trí thức và mặt trận giải phóng, tức Chính Phủ Lâm Thời Cách Mạng Miền Nam. Những nhà trí thức khoa bảng như Nguyễn Hữu Thọ, Đào Sĩ Chu, Nguyễn thị Bình, Hoàng Phủ Ngọc Tường v.v. . . nhiều lắm.
Muốn nhìn rõ bản chất sự việc, phải đào sâu, xét kỹ hoàn cảnh cá nhân, gia đình điều kiện xã hội, chủ quan, khách quan, không gian, thời gian. Rất nhiều nguyên nhân, yếu tố nhưng có một cái chung: Mỗi người giỏi, xuất sắc về một lĩnh vực. Các ông, các bà tiến sĩ, thạc sĩ, bác học, họ đã đầu tư gần hết trí óc và thời gian, miệt mài để có những bằng cấp của họ.
Vì vậy, ở những lĩnh vực khác họ lơ mơ, phiến diện, nhất là lĩnh vực chính trị, nên hầu hết là ngây thơ nông cạn. Khi đã giỏi, xuất sắc một lĩnh vực, thì các lĩnh vực khác kém, nông cạn là một điều tất yếu, bình thường, của một người.
Nhưng một điều ngộ nhận của đa số quần chúng, và chính bản thân những vị trí thức này: Những người có bằng cấp cao như thế, thì lĩnh vực nào cũng giỏi, cũng quán thấu. Do đấy họ nghiên cứu về chủ nghĩa cộng sản chỉ trên lý thuyết, sách vở (Lý thuyết và sách vở thì chủ nghĩa cộng sản đẹp và lý tưởng lắm), rồi họ hành xử, phát biểu đàng sau cái bằng cấp, của họ.
Tôi hiểu ông Cao Ủy, và mọi người chưa thỏa đáng lắm, sự trả lời của tôi, nên tôi nói tiếp:
- Thưa ông và các bạn, tôi vừa đưa ra chỉ có tính cách gợi ý, đề nghị các bạn tự suy ngẫm, tìm hiểu thêm trong thực tế. Một điều nữa xin các bạn lưu ý: Chủ nghĩa cộng sản do thời gian và thực tế đã có chiều hướng, không còn phù hợp với con người tự nhiên. Muốn duy trì, chúng phải bịp bợm, lôi kéo, gây mâu thuẫn, để chia rẽ, phía thế giới tự do của chúng ta. Chúng nghiên cứu mọi cá nhân, đoàn thể có uy tín với quần chúng. Một câu nói, một việc làm do vô tình của người này, đoàn thể kia, chúng chộp ngay, đề cao, thổi phồng. Nếu không tỉnh táo, chúng ta vội vàng phản đối, chê bai. Người ấy, đoàn thể đó đã tách ra và bị lôi dần về phía cảm tình với cộng sản.
Đột nhiên anh cảnh sát trưởng phòng hình sự đứng lên, điềm đạm đưa ra ý kiến:
- Tôi biết ngay trong đám người tị nạn ở đây, có nhiều người hoạt động bí mật cho cộng sản. Từ đấy suy ra trong các cộng đồng người Việt tị nạn ở hải ngoại, không thiếu những người vẫn bí mật, làm việc cho cộng sản. Anh có thấy như thế không?
Tôi không ngờ người Indonésia, hiểu biết nhiều về cộng sản, như vậy. Họ đưa ra toàn những vấn đề phải đàm đạo, mổ xẻ truy nguyên từng chi tiết. Tôi chỉ nói ngắn gọn, vì đã đến giờ mọi người ra về :
- Từ trước tới bây giờ, thế giới cũng như riêng Việt Nam, biết bao nhiêu tấm gương người thực, việc thực về những người nằm trong xã hội tư bản hoạt động bí mật cho cộng sản. Các người này có thấy hay ít ra cảm thấy: cộng sản kỵ nhất, nhưng vẫn phải dùng những người đã biết và nếm mùi của xã hội tự do tư bản!
Chúng biết những người này sớm hay muộn, sẽ lửng lơ không chịu ngoan ngoãn trong khuôn khổ sắt máu độc tài của chúng. Vì vậy, mỗi người chúng gửi đi nước ngoài, chúng phải nắm chắc được xương sống của người đó. Coi như chúng đã cấy “Sinh tử phù” người đó, phải hoàn toàn ngoan ngoãn, làm theo ý của chúng.
Rồi sẽ đến một ngày, như một lũ chó săn, đã hết mồi, không còn giá trị lợi dụng nữa, nuôi chúng trong tay chỉ có hại. Điển hình vừa đây nhất là: Vũ Ngọc Nhạ và Phạm Xuân Ẩn. Những người nằm vùng, hoạt động cho cộng sản, ai đã có công lao to lớn bằng Nhạ và Ẩn? Bây giờ cuộc sống ra sao?
Chúng là loại chiến lược: Nhạ là Cố Vấn tin cẩn nằm trong phủ Đầu Rồng của Tổng Thống Thiệu. Còn Ẩn đã được thời cụ Diệm đưa đi học lớp báo chí nhiều năm ở Hoa Kỳ. Để rồi hầu hết những tờ báo lớn của Mỹ và phương Tây, thậm chí cả những cơ quan tình báo của CIA, đã là những vỏ bọc vững chắc cho Ẩn. Y đã dễ dàng lấy được hầu hết những tin tức chiến lược, hay tung hỏa mù làm lạc hướng, các cơ quan có trách nhiệm.
Đến khi cộng sản chiếm được miền Nam, để làm mồi câu những con chó săn khác, sau này. Chúng phong cho Ẩn là Đại Tá, rồi mới đây (1980), chúng gán cho cái lon Thiếu Tướng, phụ trách những việc không thực quyền, ngồi chơi xơi nước. Người quen tôi ở Sàigòn cho biết: năm 1982 Ẩn sống một mình, âm thầm trong một cái villa với 6, 7 con chó, trên đường Kỳ Đồng, Dòng Chúa Cứu Thế.
Lý do những tên nằm vùng của cộng sản, về cuối đời thường cô đơn, sống lủi thủi bó chặt nỗi ẩn ức. Chủ không dùng nữa, để cho ngồi chơi xơi nước, chứ không có thực quyền. Tâm trạng tên nào cũng ôm ấp, ít nhiều lòng kiêu hãnh tự tôn, với chung quanh. Nhưng bạn bè, thậm chí họ hàng thân quyến, cho đến quần chúng, không ai ưa loại người sống lá mặt, lá trái, nên chẳng ai muốn quan hệ.
Nói tới đây, tôi và anh Huy nhìn nhau, đều đứng dậy, vì trời đã tối muộn quá rồi. Với những cái bắt tay nồng nhiệt, anh Darko Sin còn nói to:
- Chúng ta sẽ gặp lại, còn nhiều điều phải đàm đạo.

52. BẦU TRỜI TỰ DO

Anh Huy và tôi đã khoác tay nhau trở về khu trại. Khi nãy phải trả lời những điều mà tôi vẫn chưa quán triệt, nhưng vì lòng tự trọng một người Việt, nên tôi đã nhờ cụ Lưu Linh hỗ trợ hơi nhiều. Bây giờ chân tôi bước có lúc cảm tường người nhẹ bổng, bay được. Anh Huy đập vào vai, làm tôi lấy hồn lại. Anh chỉ lên trời, phóng giọng vào gió lộng:
- Anh Bình có nhìn thấy một cái tai bạc, to tướng kia không?
Đúng rồi, trăng nửa một tí thừa dựng đứng, như một cái tai người, dán lên mầu xám sậm của bầu trời Galang.
Sáng hôm sau tôi đã nhận được giấy báo 5 ngày nữa, cùng một số đồng bào rời Galang đi xứ Cờ Hoa, ngày 18-1 1-1983. Lộ trình “diện chùa” của tôi: Singapor – Tokyo – San Francisco – Denver- Boston. Ngày đi, một số bạn bè tiễn đưa, mấy giáo học Indo trong có anh Darko Sin. Đặc biệt, bác sĩ Huy đã tặng tôi tập nhạc VietNamese English, khổ công sưu tập của anh, qua trí nhớ của mọi người. Tôi rất quý tập sách nhạc đơn sơ này, như gói ghém một chút hành trang văn hoá, của Mẹ Việt Nam.
Kính thưa quý vị, chí của ai cũng muốn đào sông lấp biển, nhưng khả năng thì có hạn. Cho nên, tôi chỉ làm những điều, tôi có thể làm được.
Tôi xin cảm tạ sự kỳ diệu, nhiệm mầu của đời đã hỗ trợ tôi, trả nết món nợ nhỏ của một người vô danh, với dân tộc, với Tổ Quốc.
Boston, ngày 9- 10- 2004
Đặng Chí Bình

LỜI KẾT

Hình ảnh những bộ xương còn di động trên chốn lao trường, những nấm mồ hoang lạnh giữa rừng sâu, dư âm những tiếng thở dài lê thê xen lẫn những tiếng rên siết quằn quại trong đêm dài tăm tối… và những cặp mắt khát khao nhắn nhủ ngày tôi chia tay, vẫn lảng vảng vấn vít trong hồn; tất cả như đang khẩn nài, gào thét, đòi hỏi tôi phải thực hiện “Bản di chúc sống của họ“.
Đó là mấy dòng trích đoạn LỜI TÂM SỰ khi tôi bắt đầu viết và in Thép Đen I. Bây giờ tôi đã viết xong tập IV, coi như kết thúc cuộc hành trình gian khổ, chiếm trọn giai đoạn thanh xuân nhất của đời tôi. Từ khi bắt đầu viết Thép Đen I, đến hết Thép Đen IV, thời gian là 20 năm. Có giai đoạn hàng chục năm, tôi cầm bút lên rồi lại hạ bút xuống, làm hết quyết tâm này đến quyết tâm khác, hết bạn bè thúc đẩy cho đến giao kèo với con cái…
Bây giờ tôi như cất được một gánh nặng cuộc đời, gánh nặng trách nhiệm đối với quê hương, với bạn bè mà phần lớn đã nằm xuống lòng đất lạnh, chìm dần trong quên lãng. Tôi cũng thấy trang trải được món nợ với các thế hệ con cháu, ghi lại cho chúng về một giai đoạn, một hệ quả thương đau đến tận cùng nhân tính và nhân phẩm do chủ nghĩa cộng sản gây ra.
Tuy vậy, giữa đống xương khô, sình lầy máu mủ đó, tôi đã nhặt ra một viên ngọc quý.
Trong cuộc sống, mỗi khi tôi gặp khó khăn trở ngại, buồn nản, tưởng không thể vượt qua, nghĩ lại 6 năm dài cơ cực, quằn quại đói rét, cùm khóa ở xà lim Hoả Lò Hà Nội, như có một nguồn sinh lực thần kỳ đã nâng cao ý chí chịu đựng của tôi, nỗ lực vượt lên. Tôi lại lạc quan yêu thương đời như mọi người.
Quả vậy, ngay trong sinh hoạt bình thường, tôi nằm, tôi muốn để chân ở đâu thì để, đâu có phải đút chân vào cái cùm hộp sắt, trở mình cũng đau buốt khó khăn. Đầu tôi, đâu có phải chui vào cái túi vải, khâu bằng giẻ chùi của các bà cán bộ trong nhà cầu, mỗi đêm để chống muỗi? Ngứa chỗ nào, tự do gãi chỗ ấy, muốn đi tiểu, đi tiêu , tôi bò nhổm dậy vào nhà xí, đâu phải vặn vẹo người, nghiến răng buốt nhói, ngồi trên cái “bô” rỉ, đưa lên sàn “ciment” mình nằm?
Hơn nữa, nỗi buồn, niềm đau cay chua nghiệt ngã lại là chất men, nước mầu rắc tưới cho cuộc sống, như cánh sen ngát hương thơm trong chiếc ao đời.
Sau hết, tập hồi ký Thép Đen đã quấn cuộn hết cuộc đời, ngấm thẩm cả hồn tôi, vào từng trang sách.
Đặng Chí Bình

Tấm hình kỳ diệu của đời

Một đêm 6/1972, tại K3 trại Trung Ương số 1 phố Lu, Lào Cai, bốn người này ngồi ủ rũ, tâm tư mỗi người trăn trở vơi đầy của những kiếp tù khác nhau. Nhưng có một cái chung là đều nghĩ chẳng bao giờ được về sống ngoài xă hội như mọi người. Lầu Chí Chăn (người nhái) đă phát biểu:
-Uớc gì khi chúng mình chết, được chết no!

Hình này chụp ngày 6/3/2005. Sau 33 năm, với bao nhiêu đổi thay, chìm nổi của quê hương, cuộc đời và thế giới, 4 người này lại ngồi với nhau tại Westminster, CA.
Xin vài phút lắng đọng, suy tư để thấy cái kỳ diệu của kiếp người (ngay ở xứ Hoa Kỳ, mỗi người ở mỗi nơi. TG ở mãi bên bờ Đại Tây Dương)
Tác giả ngồi đối diện với Nông Văn Hinh, Lầu Chí Chăn ngồi sau TG, đối diện với Lưu Nghĩa Hưng. Nhắc chuyện xưa, Chăn lại phát biểu:
-Bây giờ, chúng ta lại sợ chết no!

Tóm lược thêm vài sự kiện

* Đầu năm 1992, tôi đã đến ngôi nhà của Karl Marx ở thành Trier ( Tây Đức ). Do một sự may mắn, tôi đã được gặp và hầu chuyện một số đồng bào đầu tiên, chạy từ Đông sang Tây Đức trong một trại tị nạn, (có những chuyện sốt dẻo đặc biệt) khi bức tường Bá Linh bị phá đổ.
* Tháng 11- 2003 do tình cờ tôi đã gặp lại anh BS Huy ở nhà thờ Saint Williams, Dorchester tại Massachusetts, sau tròn 20 năm, không có tin gì về nhau. Anh không nhận ra tôi, nhưng tôi đã nhìn ra anh.
Lúc đầu, trong đám đông, tôi vờ xô vào anh. Quay lại anh vẫn chưa nhận ra, để tôi phải nói: “Bác sĩ Vũ Linh Huy, Tổng Thư Ký Ban đại diện Galang”, bấy giờ anh mới ôm lấy tôi. Hiện nay anh làm việc ở Carney Hospital, Dorchester.
Ngày vợ con anh đến nhà tôi chơi. Tôi đã đưa tập nhạc với lời tặng của anh từ tháng 11-1983. Ngay tại bàn ăn anh đã phóng bút 20 phút, một bài thơ anh ghi thêm, vào bìa trong tập nhạc:
Gặp lại anh Bình
Gặp nhau ngắn ngủi tại Ga- Lăng
Ít lời nhưng thanh khí lẽ hằng
Bởi mong đất nước mau thống nhất,
Suýt cho Hồ tặc, sớm vào lăng.
Biệt giam, cùm xích, tâm không nhụt,
Hát hò, tranh đấu, chí càng hăng.
Hai mươi năm chẵn, giờ gặp lại,
Mừng anh tiết tháo vẫn khăng khăng.
Vũ Linh Huy
Tôi không ngờ, anh Huy có khả năng xuất khẩu, thành thơ.
* Cũng do một sự may của đời, qua tài liệu Nhà Trắng, ông Tourison (Viết Secret War, Secret Army) tên Phan hay François một người trực tiếp huấn luyện tôi. Tôi đã đề cập nhiều đến trong Thép Đen 1, lại là người CS đã mua chuộc, dụ dỗ được. Năm 1997, một người bạn Nhái (biệt hải) sang Mỹ sau, có gặp Fan ở Sài Gòn. Tên thực là Đỗ Văn Tiên, y cũng có nhiều công lao với Việt Cộng, nhưng bây giờ chúng cũng cho ngồi chơi, dậy tư Anh Văn kiếm sống. Đi Mỹ thì không dám, sợ phải trả những món nợ của anh em Biệt Kích, Gián Điệp. Riêng tôi từ quan điểm nhân bản tình người, chuyện gì thì cũng đã qua. Tôi có ý tưởng nếu có điều kiện, tôi muốn gặp lại hết những cán bộ cộng sản, tôi đã gặp trong trại giam. Nếu còn ai tất nhiên đều là những cụ già, gạt hết mọi chuyện đã qua, chỉ gặp lại để thăm hỏi sức khỏe của nhau.
Từ quan điểm này, tôi đã viết một lá thư ngắn mươi mười lăm dòng, cũng gạt chính trị ra ngoài lề, gửi cho Đỗ Văn Tiên. Để tôn trọng và tỏ lòng kính nhi, tôi đã mua 3 chiếc tem (Quốc Tế) để anh ta trả lời. Nhưng cho đến nay vẫn không có hồi âm, không biết Phan có còn trên dương thế ?
* Cha Tông nhà thờ cửa Bắc Hà Nội, do một sự tình cờ năm 2000, tôi mới được giải đáp vì sao tôi bị phản gián Hà Nội phát hiện, ngay từ nhà thờ Cửa Bắc? Tôi mất nhiều đêm không ngủ vì đau đầu. Có ngờ đâu, tôi dùng mọi khả năng nghiệp vụ len lỏi về đến Hà Nội, và đã tự mang mỡ đến nộp cho mèo. Chính cha Tông đã nhận nhiệm vụ với tình báo của cộng sản. Bất cứ một người nào trong Nam ra, đến gặp cha thì phải báo cho phản gián Hà Nội.
Hiện nay 10-2004, Cha Đỗ Tông đã bị liệt (do tai biến), cấm khẩu nằm chờ chết ở một gian phòng vắng trong Nhà Chung, Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Do linh mục TTK, cũng bị liệt một chân, buồng bên cạnh, cho biết. Tôi muốn nói với Cha Tông vài lời, nhưng đành chịu (người không nói được).
* Hoàng Thanh tên hung thần ở phân trại E, trung ương số 1 Lào Cai 1968, tôi đã gặp.
Hoàng Đình Mỹ, một biệt kích duy nhất, là công nhân (đểu) ở trại Thanh Lâm (Thanh Hóa) được đi phép về Nam (12/1980). Anh vượt biên đến Thái Lan, rồi đã gia nhập phong trào Phục quốc của ông Lê Quốc Túy, trở về Việt Nam hoạt động. Xâm nhập Đá Bạt, Cà Mâu (2/9/1981) Việt cộng đã chờ sẵn để bắt lại. Anh bị chúng kết án chung thân. Do áp lực của Quốc Tế (20/7/1998) CS tha về. Ngày 12/8/2002 anh đã đến San José CA.
Anh cho biết Hoàng Thanh hiện là cục trưởng Cục Lao Cải, thay Lê Hữu Qua. Mới đây y lại kiêm thêm Cục An Ninh đặc biệt nữa.
Ngay từ cuộc di cư từ Bắc vào Nam, 1954 Việt Cộng đã cài người lẫn lộn theo đồng bào di cư để hoạt động cho chúng. Huống chi 30- 4-1975, kỹ thuật của chúng càng cao, càng tinh vi: Di tản, vượt biên, HO, đoàn tụ gia đình, sinh viên du học v.v… Chúng toàn quyền nhào nặn (giấy tờ, huấn luyện. . .) trong những bàn tay phù thủy bịp bợm. Điều đương nhiên ở khắp nơi trên hải ngoại, nơi nào có cộng đồng người Việt đều có người của chúng, nhiều tầng, nhiều loại. Bất cứ một cá nhân hay một tổ chức đảng phái nào, muốn chống Việt Cộng phải tập họp, những người cùng tâm huyết, tinh thần.
Từ đấy, ngay trong những hạt nhân đầu tiên này, trong bộ tham mưu của tổ chức, đã có người của chúng. Lúc đầu, chúng ủng hộ tạo điều kiện, để phát triển. Mỗi lần là một mê lưới, bắt dần những con tôm lớn, nhỏ, chìm, nổi, chống chúng. Mục tiêu tối hậu, là duy trì chỗ ngồi của chúng vững chắc yên lành. Cho nên, Hoàng Đình Mỹ được chờ sẵn là tất yếu.
* Năm 1994, Lưu Nghĩa Lương đi HO sang Hoa Kỳ. Tôi và Lương đã gặp nhau nhiều lần. 10/03, tôi sang CA gặp một số anh BK, để thẩm định lại, một số sự kiện. Trong số anh em, tôi gặp có Lương. Một hôm, chợt như Lương nhớ ra một việc, quay lại tôi như khoe:
- Anh Bình còn nhớ Tằng toét không ?
Ngạc nhiên, không hiểu sao Lương lại nói đến tên Tằng? Tuy vậy, tôi vẫn cười, trả lời:
- Nó có quên anh, chứ anh muốn quên nó, cũng không được !
Lương nói như phát kiến một ý lạ :
- Anh có biết không, đầu 1992, em gặp anh Mạc Lịch và Tuấn Nguyệt ở Bà Chiểu. Anh Lịch kể lại tuần trước, anh tình cờ gặp Tằng Toét, đeo hàm Thiếu Tá. Tằng cho biết y mới vào Sàigòn chơi, hơn một tháng. Y rất vồn vã cởi mở, y nói: “Tôi có vào Sàigòn, mới biết, tôi cũng bị lừa, tôi xin lỗi các anh!”.
Nghe Lương thuật lại, đầu tôi vẩn lên: Chẳng qua, chủ nghĩa CS mới bị phá sản ngay tại cái “nôi” sản sinh ra, tên Tằng chưa biết ra sao, nên y tỏ ra như vậy (nên không thể tin được). Vả lại, chúng ta đã thấy, ngay những tên Bộ chính trị, hay trung ương đảng, những loại bậc thầy của Tằng Toét, nếu còn duy trì cái chủ nghĩa lỗi thời cũng chỉ vì cái ghế, hay nồi cơm của họ mà thôi. Chẳng biết tên Tằng có nghe thấy ông Gorbachev (người thầy của những người thầy tên Tằng) tuyên bố chắc nịch: Chủ Nghĩa cộng sản, chỉ có thể thay thế, chứ không thể thay đổi.
* Cô Vân y tá Hỏa Lò.
Một vị linh mục trẻ ở CA là một độc giả của Thép Đen. Vị linh mục này chạnh lòng muốn tìm gặp, để giúp đỡ ba nhân vật: Đào Thị Bắc, Phùng Văn Trí, và cô Vân y tá Hỏa Lò. Vị này đã tìm gặp tác giả. Do một sự kỳ diệu của đời, tôi đã liên lạc với cô Vân ở Hà Nội. Rồi năm 2003 do vợ chồng một anh bạn cùng khóa 11 Đồng Tiến ở CA đi du lịch, đã đến tận nhà cô Vân ở Hà Nội để ghi hình ảnh. Cảnh sống của cô khá giả hơn tôi ở Mỹ, nên tôi cũng thoải mái lòng.
* Toán Biệt Kích Hector A.
Toán BK Hector A, gồm 14 người. Ra Bắc ngày 22/6/66.
Toán trường là Bùi Quang Cát, cố vấn của toán là Nguyễn Hữu Luyện. (Đặng Đình Thúy là cố vấn của toán Hector B, 12 người, tôi đã tường thuật). Từ ngày Hoàng Đình Mỹ sang CA, tôi trao đổi phone với Mỹ và Bùi Quang Cát cùng ở San José nhiều lần, mới nhất (9/2/05). Sau đây, tôi xin sơ lược về toán Hector A: Địa bàn hoạt động ở Cà-Roòng Quảng Bình (đường mòn HCM). Toán xuống đúng một tháng, một ngày thì bị bắt:
· Bùi Quang Cát, toán trưởng hiện ở San José.
· Nguyễn Hữu Luyện, cố vấn hiện ở MA
· Nguyễn Văn Toán, truyền tin trưởng hiện ở Mỹ.
· Trần Hữu Tuấn, vũ khí phá hoại hiện ở Mỹ.
· Nguyễn Văn Thùy, truyền tin phụ hiện ở WA.
· Đỗ Văn Tính, toán viên hiện ở Hoà Lan.
· Đinh Văn Vượng, toán viên hiện ở Mỹ.
· Trần Văn Tiếp, toán viên hiện ở TX.
· Trần Hữu Thức, toán viên hiện ở Xóm Mới Gò Vấp VN.
· Vũ Đình Giao, toán viên hiện ở Mỹ.
· Hoàng Đình Mỹ, toán viên hiện ở San José.
· Nguyễn Ngọc Lâm, toán viên hiện ở Santa Ana.
· Nguyễn Mạnh Hải, liên lạc dẫn đường, vì ở Thái về. Biết tiếng Thái và dân tộc thiểu số. Vượt biên, bị chết ở Thái Lan.
· Đỗ Văn Tư, toán viên. Tư có cái nhẫn, bị cướp vào nhà, lột. Tư chống cự, bị cướp giết 1992 tại đường Nguyễn Thế Hiển, Chợ Lớn.
Toán vì sao bị lộ, bị bắt ? Tôi nghe nhiều tình huống, nhưng không phải chủ trương của người viết, nên tôi không tường thuật chi tiết. Toàn toán phải bị dong đường bộ từ Quảng Bình về đến Hoả Lò, Hà Nội hơn 1 tháng trời.

Bài viết của Phan Thanh Vân

Hôm nay đã là 29 tháng chạp, chỉ còn vài ngày nữa là Tết rồi. Tết năm nay là Tết Tân Hợi (1971) và đúng là cái Tết thứ 10 mà mình sống bơ vơ, xa gia đình, xa quê hương xứ sở.
Chiều hôm nay, sau khi hoàn thành xong chiếc giường đôi rẻ quạt, gã chính ủy (ủy viên chính trị) quản lý hợp tác xã mộc Đồng tiến ở thị xã Ba vì, tỉnh Sơn Tây gọi tôi lên văn phòng và nói:
-Anh nghỉ việc sáng hôm nay, về lán thu xếp để chuẩn bị ngày mai về Hà nội.
Tôi thắc mắc:
-Dạ, báo cáo cán bộ, tôi về Hà nội có chuyện gì và về bao lâu?
Gã lạnh như tiền:
-Anh đừng thắc mắc, đó là lệnh trên của Trung ương, tôi cũng không biết lý do. Anh cứ chuẩn bị sẵn sàng đi, và có lẽ anh sẽ không trở về đây đâu.
Ra khỏi văn phòng cán bộ, tôi trở về lán thu xếp đồ nghề mà trong lòng nghĩ ngợi miên man; lại cái gì đây?Được đưa về đây sống quản thúc ở hợp tác xã mộc này đã gần 2 năm nay, ngày ngày tháng tháng lòng mình lúc nào cũng thấp thỏm lo âu với cái tội nặng nề thầm kín mang trong người là “giặc lái Mỹ ngụy”
Năm 1961, sau khi lãnh cái án tù 7 năm, là từ Hỏa Lò Hà Nội đến trại này trại kia, cuối cùng là trại E Phố Lu (Lao Cai), tôi đã “ngoan ngoãn” cải tạo tư tưởng để trở thành “thành phần tiến bộ”, để sau khi hết án 7 năm tù, được hường thêm 2 năm “tự giác” ở lại trại giam. Và cuối cùng cho đến năm 1969, tôi đã thở phào nhẹ nhõm người khi được nhân dân, Đảng và nhà nước trả tự do, đưa về đây quản thúc với nghề thợ mộc,”ngày động tối điểm” (ban ngày lao động:cưa xè, đóng bàn, đóng giường, tối điểm danh trước khi đi ngủ).
Tối hôm nay trằn trọc mãi, không tài nào ngủ được, lo nghĩ lại chuyện gì sẽ đến với mỉnh đây, tại sao lại bị đưa về Hà nội, tại sao…tại sao…nằm mãi không ngủ được thôi thì dậy, phì phèo vài điếu thuốc lào.
Ngoài lán các “đồng chí” đang quây quần bên đống lửa to, canh nồi bánh chưng. Nghĩ lại nếu không có cái lệnh đi Hà nội thì giờ này mình cũng ngồi ngoài đó vì ban sáng mình đã được phân công canh nấu bánh chưng tối nay.
Sáng rồi, chưa tới 9 giờ thì thấy đã có một chiếc xe Molotova loại nhỏ như xe Jeep của Mỹ, đậu sẵn ở trong sân của Hợp tác xã. Tôi cũng đã sẵn sàng khi đồng chí cán bộ quản lý xuống kêu lên văn phòng gặp cán bộ trung ương.
Vào đến văn phòng là tôi khựng lại, nghĩ thầm trong lòng: Lại cái ông Toán này nữa, cái ông cán bộ công an đã săn sóc mình trong mấy năm qua, từ khi mình được trở thành ngườI tự do.!!
Sau khi anh quản lý bảo tôi ngồi xuồng rồi đi ra, ông Toán mới chậm rãi:
Anh có được khỏe không? Hôm nay tôi lên gặp anh để đưa anh về Hà nội và sau đó đưa anh ra sân bay để anh đi Pháp đoàn tụ với gia đình. Đảng và nhà nước đã rất khoan hồng đối với anh và đã chấp thuận lời xin của gia đình người chị của anh ở bên Pháp, cho anh về Pháp sum họp gia đình.
Nghe đến đây tôi như tắt thở, mừng đến nỗi nhịp tim đập mạnh như muốn nhảy ra ngoài, tuy nhiên vẫn cố lấy bình tĩnh để nghe tiếp những lời lải nhải của đĩa hát cũ đã rè, lập đi lập lại, nào là anh phải biết ơn nhân dân, biết ơn Đảng và nhà nước, nào là anh phải tiếp tục cải tạo tư tưởng để thành người tiến bộ, trở về phục vụ nhân dân, phục vụ Đảng và nhà nước v…và v…
Ông Toán nói tiếp:
Đây là giấy thông hành tạm cấp cho anh để anh dùng đi đường ra nước ngoài, còn đây là giấy máy bay của hãng hàng không Pháp Air France đi từ Hà nội đến Paris . Giấy máy bay này do người chị của anh mua và gởi sang cho chúng tôi để nhờ đưa lại cho anh dùng. Thôi chúng ta chuẩn bị lên đường kẻo trễ, anh còn có ý kiến, còn muốn phát biểu gì không?
Tôi lập bập:
Dạ báo cáo cán bộ, dạ dạ thưa không!
Đứng dậy ra xe chân mình bủn rủn, đi hết muốn vững. Đâu có ngờ!
Ra đến xe thấy cán bộ quản lý chạy lại:
Anh cầm lấy túi bánh chưng này, đây là quà Tết của hợp tác xã tặng anh, cầm theo mà ăn đi đường.
Xe lăn bánh rời Ba Vì, bon bon trên đường hướng về Hà nội. Ngồi trên xe mà lòng tôi lâng lâng, nửa tỉnh nửa mơ, mừng lo lẫn lộn, vì chưa hẳn dám tin đó là chuyện thật, hai bên đường cây cối trơ trụi, bụi đường tung tóe theo lằn bánh xe lăn, nhưng sao mình thấy cái gì cũng vui tươi, cái gì cũng đẹp sáng, tưng bừng như…Tết.
Mải triền miên với trăm nghìn ý nghĩ trong đầu, tôi không để ý đã băng qua Hà nội lúc nào và đang trên đường tiến vể sân bay Bạch mai
Xe đến cổng phi trường thì chạy chậm lại, tài xế lái xe vào đậu ở gần nhà ga hành khách, ông Toán bước xuống quay lại bảo tôi xuống xe theo ông vào trong làm thủ tục giấy tờ.
Tôi liếc nhanh quanh sân bay, ngoài bãi đậu xa hai ba chiếc máy bay rải rác đậu, một chiếc máy bay kiểu Illouchine 14 của Nga (loại máy bay vận tải chở hành khách loại nhỏ đang chuẩn bị, năm ba người nhân công chạy chung quanh, người đổ xăng, người đi vòng phi cơ kiểm tra.
Tôi nghĩ bụng mình sẽ đi với chiếc phi cơ này. Sau khi theo ông Toán vào quầy hành khách để trình giấy tờ, giấy thông hành, giấy máy bay…làm xong thủ tục, ông Toán nói:
-Thôi đến giờ rồi, anh theo ra máy bay đi, anh đi mạnh giỏi và hãy nhớ những gì anh đã tiếp thu được mà cố gắng trở thành người tốt.
-Dạ báo cáo cán bộ, dạ tôi xin cám ơn!
Mình lập bập, hối hả theo sau độ năm mười người nữa ra hướng máy bay đậu. Nhìn những hành khách khác, không biết là Việt hay Tàu, người nào cũng áo bốn túi, cổ Mao, chắc toàn là cán bộ đi công tác, còn mình thì chả giống ai với bộ bà ba nâu, chân đi dép cao su Bình Trị Thiên, tay quẩy túi bánh chưng bây giờ mới để ý thấy có bốn cái, mình lững thững bước lên vào tìm chổ ngồi trong phi cơ. Nhìn anh phi công cao lớn, da đỏ có lẽ là người Nga, mặc đồ phi hành dân sự, đi giữa hai hàng ghế hành khách để lên buồng lái, tôi ngẩn ngơ nhớ lại… ngày nào!
Chiếc vận tải cơ Illouchine 14 của hãng hàng không Nga từ từ chuyển bánh ra phi đạo, ngừng lại chỗ thử máy và sau đó cất cánh nhẹ nhàng.
Toàn thân tôi rung mạnh theo đà máy bay lăn trên phi đạo rồi từ từ rời đất liền và theo chiều cao bay lên, bỗng dưng hai mắt tôi nhắm nghiền lại, người tôi tự nhiên thấy ớn lạnh khi chợt nghĩ đến… một chuyến bay!!!
Rồi những kinh hoàng, hãi hùng của những giây phút rùng rợn gần 10 năm xưa dần dần tiếp diễn qua tâm trí tôi như một cuốn phim:
Tôi nhớ rõ chiếc máy C47 trắng ngần do tôi lái khi vượt qua vĩ tuyến 17, bay là sát mặt biển xâm nhập vào bầu trời của miền Bắc, dù còn ở ngoài khơi của biển Đông, cả 7 người trong phòng lái chúng tôi đều bắt đầu thấy thần kinh căng thẳng; người này lo lắng liếc mắt nhìn người kia, không ai nói vơi ai một lời. Khi máy bay vào sâu nội địa, tôi còn nhớ lúc ấy khoảng hơn 1 giờ đêm, đột nhiên tôi thấy nhoáng lên như ánh chớp màu da cam ngay trước mặt tôi trong bầu trời như bức màn đen, máy bay tự nhiên rung giật mạnh, không hề nghe một tiếng nổ hay bất cứ một âm thanh gì, hai tay tôi ôm cứng lấy tay lái, cố giữ thăng bằng cho chiếc máy bay, mắt tôi còn thoáng thấy anh Mậu điều hành viên và anh Thích phi công phụ ôm chầm láây nhau, rồi…tôi không còn biết gì nữa!
Không biết mãi bao lâu sau, khi thấy lạnh run, tôi cố mở mắt nhìn trong đêm tối đen kịt, người tôi như vỡ nát ra trăm mảnh, tôi không cử động được tay chân, đau đớn tận cùng hồn tôi lửng lơ, tôi tưởng như tôi đã chết rồi, hay đang… chết. Sau đó dần dần một lúc, tôi mới cảm thấy đau nhừ khắp cả người, chỗ nào cũng đau, tôi không nhìn thấy gì cả, cố thu hết tàn lực đưa tay quờ quạng hốt ít nước bùn lầy đưa lên mặt để rửa. Nước bùn nhầy nhụa hòa với một thứ nước mằn mặn trên gương mặt loang lổ của tôi, “máu “ mặt tôi đày máu, tôi cố mở mắt nhiều lần nhưng vẫn không thấy gì, đầu tôi như có ai cầm chiếc gậy đập đều đều, tôi lại mê man, tâm trí như có một khoảng trống rỗng, chẳng còn ý niệm gì về thời gian, không gian.
Tôi cũng chẳng biết là cho đến bao lâu nữa, mãi khi tai tôi chợt nghe văng vẳng trong gió lao xao của đêm khuya:
-Chết tôi rồi, chết tôi rồi, nóng quá, nóng quá, chết…tôi rồi!
Tiếng kêu thảm thiết của những người đang chết cháy! Tôi không nhúc nhích gì được, cả một nửa người của tôi đã ngập sâu dưới bùn lầy, tôi cố mở mắt to: xa xa cách chỗ tôi “đứng” độ vài trăm thước, một đám cháy to, lửa đỏ bốc lên ngùn ngụt và những tiếng thét kinh hoàng mà tôi nghe từ đó vọng ra, tôi như nửa tỉnh nửa mê, chợt lờ mờ có ý niệm rằng chiếc C47 do tôi lái đã bị bắn rơi xuống đây và đang bốc cháy!
Tôi lại mê man bất tỉnh cho đến khi mở choàng mắt ra, lúc này đã nhìn được lơ mơ thấy khung cảnh đồng ruộng sình lầy, đầu tôi đau nhức như có người lấy dao nạo vào óc, rồi tôi nghe rõ tiếng người hò hét xa xa, tiếng léo nhéo, quát tháo vẳng trong gió đêm.
Một ý thức bừng dậy thành phản xạ của sự sống còn ập đến như một đòn bẩy, tôi cố vùng vẫy, nhô người lên khỏi đám sình lầy, nhưng tôi quá yếu, bất lực!
Tiếng quát tháo lẫn lộn của đàn ông lẫn đàn bà càng lúc càng gần cùng với những ngọn đuốc lập lòe di động đốt sáng cả một góc trời, phần vì khắp người đau như dần với bao nhiêu thương tích, phần vì quá khiếp sợ, đầu óc tôi tê đi, cho đến lúc họ đã quát tháo ầm ầm bên tai tôi mà tôi vẫn đứng im như một xác chết. Họ hò nhau túm lấy tay chân tôi, kéo tôi ra khỏi sình lầy.
Lúc này trời đã sáng tỏ, tôi lờ mờ thấy không biết bao nhiêu người, đàn ông, đàn bà lố nhố vây quanh tôi, súng ống gậy gộc, họ hầm hè như muốn nhai xương, nuốt sống, ăn thịt tôi tôi đau đớn sức tàn, tôi sợ quá, nhắm mắt lại, rồi lịm đi, văng vẳng nghe tiếng quát, tiếng chửi rủa ập ngoáy vào tai tôi:
-Coi chừng, coi chừng, nó hãy còn sống, đập chết nó đi, đập chết nó đi, nó là biệt kích ác ôn của Mỹ Diệm!
Cuốn phim đến đây tự nhiên tắt ngay, tôi giựt mình bừng tỉnh dậy. Tôi đang ngả người trên chiếc ghế nhung của hành khách, máy bay đang bay êm, tiếng máy đều đều…trong máy bay gió lạnh nhưng người tôi ướt đẫm mồ hôi, ướt thấm cả bộ quần áo nâu tôi đang mặc, tôi cảm thấy lạnh, lạnh ớn xương sống…với giấc chiêm bao vừa qua!
Với tay với cái mền đắp lên người mới nhớ ra các giấy tờ mang theo trong người, lần mò móc ra xem, ngoài tờ giấy thông hành tạm, đóng dấu đỏ của Bộ Công An Hà nội là giấy máy bay của hãng hàng không Pháp Air France, trong đó ghi chặng đường đi:Hà nội, Canton, Hồng kông. Paris .
Tôi nghĩ thầm trong bụng: tại sao ghé qua Quảng đông (Canton) đó là đất đai của Trung cộng, nếu mà lôi thôi trở ngại biết làm sao?
Mãi loay hoay với ngàn ý nghĩ lo lắng, tôi không để ý đến đèn báo hiệu buộc dây an toàn bật cháy, cho đến khi người chiêu đãi viên đến nhắc tôi vì máy bay chuẳn bị đáp. Phi trường Quảng đông vắng tanh, lạnh ngắt, không thấy một sinh hoạt nhộn nhịp nào như các phi trường dân sự khác, không thấy một chiếc máy bay nào khác đậu ở sân bay, ngoài chiếc máy bay tôi đang đi, từ từ vào bến đậu, ngay trước nhà ga hành khách. Tôi được mời xuống máy bay theo sau lẻ tẻ hai ba người hành khách khác, đi vào trạm nhà ga.
Vì đã quen với cách thức đi lại của các phi trường quốc tế, tôi tìm ngay đến quầy tiếp khách đại diện của Air France . Sau khi trình giấy tờ, giấy máy bay của tôi cho người nhân viên, một người tầu, bập bẹ nói tiếng Pháp, anh ta xem xong rồi nói:
Hiện tại chúng tôi không có đường bay nối tiếp (connection) giữa Canton và Hồng kông, theo lộ trình đã được chỉ định và trả tiền trước, chúng tôi sẽ lo liệu cho anh đi Hongkong bằng đường xe lửa, và khi đến Hong kong anh sẽ tiếp tục lấy máy bay đi Paris, anh chuẩn bị theo tôi ra xe để tôi đưa anh ra nhà ga xe lửa cho kịp giờ.
Ngồi trên xe theo người nhân viên Air France từ phi trường ra ga xe lửa, quang cảnh hai bên đường xe chạy lạ hoắc, nhưng tôi đâu còn tâm trí nào để nhận xét! Nhà ga xe lửa Quảng đông thật nhộn nhịp ồn ào khác thường, đặc nghẹt hành khách và hành lý. Người nhân viên Tầu dắt tôi len lỏi qua đám người, chen chúc đến quầy lấy vé và đưa tôi lên một toa giữa con tầu để tìm chỗ ngồi, may mắn tìm được một chỗ trống gần cửa sổ, anh ta chỉ cho tôi ngồi xuống và đưa tay bắt tay tôi chúc may mắn (bonne chance)
Khi xe lửa bắt đầu lệnh khệnh lăn bánh, một kiểu xe lửa từ thời chiến tranh 1914-18, cũng là khi tôi thấy đói lả, mệt nhừ! Chợt nhớ túi bánh chưng xách tòn ten theo từ khi rời Hà nội, tôi mở ra lấy một cái, bóc lá, nhỏm nhẻm ăn ngon lành, thả hồn thưởng thức hương vị của bánh chưng Tết, mặc kệ cho quang cảnh ồn ào chung quanh, tiếng cười, tiếng nói “xí xí ngộ cỏn” của các hành khách nông thôn Tầu đù loại, đang chen chúc nhau trong toa tàu chật hẹp.
Trời đã xế chiều, tôi không có ý niệm chính xác về thời gian, đoán chừng là đã 4, 5 giờ chiều thì xe lửa từ từ dừng lại vì đã tới trạm ranh giới giữa Quảng đông và Hồng kông. Sau khi xe lửa ngừng hẳn, giữa cảnh ồn ào nhốn nháo của hành khách, tôi thấy hai người mặc quân phục, một người Anh và một người Tầu, tôi đoán là nhân viên của Sở Di trú (Immigration) lên toa xe để kiềm soát giấy tờ.
Khi họ đến chỗ tôi ngồi và sau khi xem xét giấy thông hành tôi trình ra, nhân viên người Anh lật qua lật lại tờ giấy của tôi, xem xong rồi chậm rãi nói:
-Với giấy thông hành này của CS Hà nội cấp cho anh đi đường, vì không phải là sổ thông hành chính thức, chúng tôi chỉ chấp nhận cho anh đi qua(transit) đất Hông kông 24 tiếng đồng hồ mà thôi, sau thời gian đó, anh phải đi ra khỏi Hong kong, nếu không chúng tôi sẽ bắt giữ anh và trục xuất anh về Hà nội, anh có hiểu rõ lời tôi nói không?
Tôi xanh mặt, lẩm bẩm trả lời:
Yes, yes Sir!
Tay run run cầm tờ giấy thông hành người nhân viên Anh đưa trả lại,bụng nghĩ thầm:
-Chết cha thằng nhỏ rồi, rồi đây biết lo liệu làm sao?
Xe lửa ngừng hẳn ở nhà ga Hong kong, hành khách chen chúc nhau đi xuống, tôi đặt chân xuống nền gạch sạch mát của nhà ga, lòng tự nhiên thấy hả hê, vui lây với quang cảnh sinh hoạt của thế giới tự do!Tôi nhìn đồng hồ nhà ga, đã hơn 6 giờ chiều, tôi vội vã len lòi ra khỏi nhà ga, tìm đường mò về phi trường Kaitak vì biết chắc đó là phi trường quốc tế của Hongkong
“Thả cọp về rừng”, may là đường xá ở Hong kong đâu có xa lạ gì với tôi khi tôi còn lái cho Air Vietnam và đã từng ghé qua ăn cơm bữa ở đây. Cất bước như vừa đi vừa chạy, băng ngang qua các phố xá đông nghịt người vui nhộn như cảnh Tết, nhưng tôi đâu có dám dừng chân để thưởng thức gì, vừa mệt vừa lo sao cho kịp đến phi trường Kaitak để bắt cho kịp chuyến máy bay Air France đi Paris.
Vào đến phi trường là lúc phố xá đã lên đèn, người tôi mệt nhoài, tôi hổn hển tìm đến quầy vé hãng Air France, trình giấy máy bay đề đi cho kịp chuyến AF 1002, cất cánh lúc 20 giờ đi từ Hong kong sang Paris theo như trên bảng khởi hành (departure) mà tôi đã nhanh mắt nhìn qua.
Người nhân viên hãng Air France sau khi ghi nhận và xem xét giấy thông hành của tôi, anh ta nói:
-Đây nhé, chúng tôi rất tiếc là không thề nhận cho anh đi trên chuyến bay này vì anh mang trong mình giấy tờ cùa CSBV và máy bay của chúng tôi phải làm transit ở Bangkok, tôi e ngại rằng nhà cầm quyền Thái lan sẽ làm khó dễ cho anh, tôi khuyên anh nên nhẫn nại chờ chuyến sau, hoặc bay thẳng, hoặc ghé nơi nào có thuận lợi cho anh hơn thì anh hãy đi.
Cầm giấy tờ người nhân viên đưa trả lại mà tôi “hỡi ơi, sao lại gặp rắc rối quá trời như thế này”. Chân đi không vững, tôi lần mò ra ghế băng ngổi nghỉ đợi, trong lòng “trống đánh thùng thùng”, lo âu cứ nghĩ đến giờ sẽ bị trục xuất! Chợt có ai đằng sau vỗ vai tôi và một giọng phụ nữ vui vẽ nói bằng tiếng Pháp:
-Ê có khỏe không? Anh có phải là anh Vân, captain Air Vietnam ? Đi đâu mà ăn mặc kỳ cục không giống ai hết vậy?
Tôi ngỡ ngàng quay lại, một người đẹp trong bộ y phục chiêu đãi viên hàng không tươi cười đưa tay cho tôi bắt:
-Anh quên tôi rồi sao?Tôi là Francoise,hôtesse Lufthansa nè!
Tôi ngạc nhiên,sượng sùng nhìn người thiếu phụ quen quen không nói được một lời, chị ta tiếp tục huyên thuyên kể lể.
À! thì té ra là Francoise Dupuis, nữ chiêu đãi viên bay cho hãng hàng không Đức, người mà thời xưa, lúc tôi còn lái cho Air Vietnam, đã từng được tôi mời mọc, ăn uống mỗi khi gặp nhau ở các escale Hongkong hay Tokyo…
Tự nhiẽn tôi thấy thoải mái, mừng lây với cái vui mừng vồn vã, hồn nhiên của người xưa, nay gặp lại nhau, tự nhiên tôi thấy có can đảm để “bốc” với nàng, đem “nghề của chàng” kể lể cuộc đời đã qua với hoàn cảnh hiện giờ của tôi cho nàng nghe. Nghe xong nàng vui vẻ:
-Anh đừng lo, tôi sẽ cố gắng thu xếp giúp anh. Anh đưa vé máy bay của anh cho tôi, tôi sẽ lo liệu cho anh trên chuyến máy bay Lufthansa của tôi, cất cánh đi Francfort lúc 10 giờ đêm, có ghé qua Paris, có điều là tôi dặn anh phải nhớ, khi đáp xuống Bangkok để tiếp tế xăng và lấy thêm hành khách, anh phải giả bệnh nằm lại trên phi cơ, tôi sẽ tìm cách thu xếp ổn thỏa cho anh tránh khỏi qua sự kiểm soát của Thái lan, anh nhớ nhé. Thôi anh đi theo tôi làm thủ tục cho kịp.
Tôi vui mừng vô cùng, lững thững đi theo người đẹp mà trong lòng thầm nghĩ sao lại còn may mắn gặp được cảnh “thánh nhân đãi kẻ khù khờ”.
Sau bao nhiêu gian truân trắc trở, lo lắng trên đoạn đường đời của một người “từ cõi chết tìm về tự do” cuối cùng tôi đặt chân xuống phi trường Orly (Pháp) ngày 7 tháng 2 năm 1971.
Cò trắng Phan thanh Vân  Xuân 2002
1     2     3         5     6     7     8     9     10     11     12     13     14  

   15     16

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét